Đợt sóng thứ ba

10:40 SA @ Thứ Bảy - 18 Tháng Mười Hai, 2010

Có thể tiếp cận với những vấn đề của con người và văn hoá từ nhiều góc độ. Từ cách tiếp cận phân tíchcác "đợt sóng" xã hội, Alvin Toffler, trong cuốn sách nổi tiếng của mình "Đợt sóng thứ ba", đã dùng hình ảnh các đợt sóng để chỉ các nền văn minh loài người, chúng không ngừng xô đẩy, va chạm, ảnh hưởng qua lại, thách thức và phủ nhận lẫn nhau tượng trưng cho sự tồn tại và phát triển xã hội. Trên thực tế, khi nền kinh tế thay đổi thường cũng kéo theo sự biến đổi của các yếu tố tâm lý, văn hoá truyền thống, thậm chí cả thể chế xã hội.

Trong phân tích các đợt sóng văn minh, Alvin Toffler không chỉ chú ý đến mặt sóng, mà đặc biệt quan tâm đến những quãng ngắt, những thời điểm gián đoạn của sự phát triển, để rồi lại có những sáng tạo mới điều chỉnh xã hội.

AlvinToffler coi các nền văn minh như một chỉnh thể được kết hợp, thay thế lẫn nhau của các yếu tố kỹ quyển (khoa học kỹ thuật), thông tin quyển (công nghệ thông tin), xã quyển (văn hoá) và tâm quyển (niềm tin). Trong tương quan trên, ông đã nhìn thấy những nghịch lý xã hội ngày một gay gắt hơn: bên cạnh sự phát triển của kỹ quyển và thông tin quyển đang được ứng dụng rộng rãi trên mọi lĩnh vực, là sự đi xuống của xã quyển, khi gia đình hạt nhân tan vỡ lối sống đơn thân và ly thân xuất hiện ngày càng cao như một xu thế xã hội. Chiến tranh vẫn tiếp diễn giữa nhiều quốc gia, giữa các tôn giáo, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chính trị. Trong bối cảnh đó tâm quyển cũng bị thay đổi dẫn đến sự phát triển của tự do tín ngưỡng, nhiều giá trị nhân văn truyền thống bị xâm thực, thậm chí ở đâu đó xuất hiện dấu hiệu suy thoái. TheoAlvinToffler, lịch sử nhân loại có ba nền văn minh kế tiếp nhau: nền văn minh nông nghiệp, nền văn minh công nghiệp và nền văn minh hậu công nghiệp. Cho tôi nay, loài người đã trải qua hai đợt sóng lớn: Đợt sóng thứ nhất là sự ra đời của nông nghiệp và cùng với nó là nền văn minh nông nghiệp - bước ngoặt thứ nhất trong sự phát triển của xã hội loài người. Đợt sóng thứ hai là sự ra đời của công nghiệp hoá và cùng với nó là nền văn minh công nghiệp. Hiện nay, đang xuất hiện đợt sóng thứ ba cùng với nền văn minh hậu công nghiệp, ở đó, con người chứng kiến sự hội nhập rộng rãi và phát triển của công nghệ thông tin, những thành tựu vĩ đại của công nghệ sinh học (di truyền học). Song đợt sóng thứ ba đồng thời cũng đang là một thách thức lớn đối vôi xã hội loài người.

Đợt sóng văn minh thứ nhất

Trước khi Đợt sóng thứ nhất xuất hiện, con người sống thành nhóm nhỏ, sinh sống bằng săn bắt, hái lượm, đánh cá và chăn nuôi. Khoảng 8.000 năm trước CN, làng mạc bắt đầu hình thành và ở đó được tổ chức mọi hoạt động đời sống. Gia đình là đơn vị sản xuất chủ yếu bao gồm nhiều thế hệ với sự phân công lao động hết sức giản đơn. Nền kinh tế phân quyền và mỗi đơn vị sản xuất tự tạo ra sản phẩm của mình theo nhu cầu riêng. Khi đẳng cấp xã hội hình thành cũng là lúc xuất hiện việc sử dụng quyền lực một cách cứng nhắc, độc đoán. Trên toàn cầu, mặc dù điểm xuất phát của trình độ văn minh của mỗi khu vực, mỗi quốc gia không giống nhau nhưng về cơ bản kinh tế xã hội, văn hoá đều xuất phát từ quan hệ với đất đai.

Sự thay đổi từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp đã tác động nhiều mặt đến đời sống xã hội: từ chính trị, văn hoá, đến tinh thần, nhân cách con người. A.Toffler nhấn mạnh đến sự phân tách giữa sản xuất và tiêu dùng, sản xuất và trao đổi, từ đó con người - lực lượng sản xuất và đồng thời cũng là chủ thể tiêu dùng của xã hội cũng bị phân biệt thành con người sản xuất và con người tiêu dùng.

Trong sự phân tách này, một mặt, lực lượng sản xuất được chuyên môn hoá khiến mọi thành viên xã hội phụ thuộc chặt chẽ với nhau hơn nhưng mặt khác cũng tạo ra một cơ chế sản xuất chạy theo lợi nhuận thặng dư. Từ đó, cũng đồng thời xuất hiện một lớp người ham muốn vật chất và thực dụng, dẫn tới nhiều mối quan hệ như: quan hệ cá nhân, gia đình, cộng đồng, tình bạn, tình yêu… đều bị thực dụng hoá.

Đợt sóng văn minh thứ hai

Ở nhiều quốc gia, xung đột quyền lực của đợt sóng thứ nhất và đợt sóng thứ hai nổ ra gay gắt, dẫn đến khủng hoảng và những biến động chính trị. Theo A.Toffler, điều kiện tiên quyết của mọi nền văn minh là năng lượng và nền văn minh thứ hai dùng năng lượng chủ yếu là than đá và dầu khí để sản xuất, đây là những nguyên liệu không thể khôi phục được, lại phải khai thác tập trung và giới hạn về trữ liệu. Trên cơ sở nguồn năng lượng đó, đợt sóng thứ hai đã đẩy công nghệ lên một trình độ cao, tạo ra những máy điện cơ khổng lồ, đặc biệt là sản xuất ra những máy công cụ hoạt động dây chuyền, một loạt ngành công nghiệp ra đời: công nghiệp than, dệt, đường sắt, cơ khí ôtô, nhôm, công nghiệp hoá chất, thiết bị... Các đô thị đồ sộ xuất hiện. Các trung tâm công nghiệp sản xuất ra hàng loạt những sản phẩm giống nhau. Sự ra đời của sản xuất hàng loạt đã làm thay đổi cả phương thức sản xuất và tiêu thụ. Công nghệ của đợt sóng thứ hai đòi hỏi nhiều nhà tư bản lớn liên kết với nhau hình thành những Công ty trách nhiệm hữu hạn đồ sộ.

Nền văn minh công nghiệp đã tạo ra một lực lượng sản xuất như những "cỗ máy liên hoàn" được chuyên môn hoá tối đa, dẫn đến việc con người phát triển thiếu toàn diện: một số cơ quan chức năng như cơ bắp, ngón tay bấm nút... phát triển mạnh, trong khi đó những cơ quan khác lại trở nên thiếu nhạy cảm hơn.

"Khi đợt sóng thứ hai bắt đầu tràn qua... các gia đình đều cảm thấy cái stress của sự thay đổi: Trong mỗi hộ, sự va chạm của các bước sóng xung đột, những đợt tiến công vào quyền gia trưởng đã biến đổi quan hệ giữa con cái và bố mẹ, các khái niệm mới về sở hữu. Vì sản xuất kinh doanh chuyển từ ruộng đất sang nhà máy, nên các chức năng then chất của gia đình bị chia nhỏ thành những thể chế mới, chuyên môn hoá... Cơ cấu gia đình cũng bắt đầu thay đổi, cơ động hơn và thích hợp hơn với những nhu cầu của bầu khí quyển công nghệ. Cái gọi là gia đình hạt nhân gồm bố mẹ, một vài đứa con không gây phiền nhiễu trở thành mô hình hiện đại, tiêu chuẩn được xã hội tán thành".

Như vậy, sự thay đổi của kỹ thuật và công nghệ, kéo theo cả hệ thống giáo dục và an sinh xã hội, khi mà cha mẹ cũng không còn có thời gian chăm sóc con trẻ và đẩy trách nhiệm nhiều hơn cho nhà trường theo kiểu đại chúng, gia đình và trường học như vậy đã biến các thế hệ thanh niên thành lực lượng lao động tập thể theo kiểu nền công nghiệp điện cơ và dây chuyền, người già trong gia đình cũng thiếu sự chăm sóc của con cái, họ chỉ còn biết chấp nhận với những hoạt động của các nhà an dưỡng công ích.

Trong nền văn minh thứ hai này, A. Toffler đã đề cập đến "một loạt các quy tắc chỉ đạo toàn bộ hoạt động đời sống như một kiểu”. Các quy tắc đó phát triển một cách tự nhiên, được A.Toffler tổng hợp lại như sau:

Tiêu chuẩn hoá được áp dụng không chỉ trong từng khâu sản xuất, từng phân xưởng, mà trong toàn bộ dây chuyền và Công ty.

Chuyên môn hoá trên cơ sở đồng bộ và toàn bộ, công nhân chỉ biết làm một việc như một cái máy đơn điệu.

Đồng bộ hoá được coi là sự phối hợp nhịp nhàng với nhau do sự tách rời ngày càng rộng lớn giữa sản xuất và tiêu dùng bắt buộc con người trong nền văn minh công nghiệp phải thay đổi cả cách xử lý thời gian và kinh phí. Con người phải vận hành theo nhịp độ của máy móc, chặt chẽ, tinh vi và chính xác hơn.

Sự tích tụ cũng là một mã số đáng quan tâm trước hết là về năng lượng, là sự tập trung dân cư từ nông thôn ra các đô thị khổng lồ.

Cực đại hoá được tính đến khi nền kinh tế tách biệt sản xuất với tiêu dùng tạo ra trong xã hội tâm lý thích quy mô đồ sộ ở tất cả các nước có nền văn minh công nghiệp này, người ta thường khoe những toà nhà chọc trời, những đường phố phố to rộng và đông dân, những nhà máy khổng lồ... và tự hào với những thành quả đó.

Tập trung hoá thúc đẩy sự tập trung cao độ trong nền kinh tế đòi hỏi chế độ chính trị cũng phải chặt chẽ hơn, đẩy mạnh quyền lực, độc quyền về tiếng nói quyết định, đặc biệt ở cấp trung ương.

Nói tóm lại, với cuộc cách mạng công nghiệp, đợt sóng thứ hai đã thiết kế xã hội theo mô hình nhà máy, sản xuất hàng loạt, sản xuất để tiêu thụ. Giáo dục, thông tin đều theo hướng đại chúng hoá, con người trong xã hội trở nên có kỷ luật hơn.

Đợt sóng văn minh thứ ba

Theo A.Toffler, thế giới hiện nay ngày càng thể hiện rõ hơn sự hiện diện của một làn sóng mới được gọi là đợt sóng thứ ba. Song sự thay thế này cũng sẽ lại trải qua những đấu tranh quyết liệt, thậm chí còn gay gắt hơn khi làn sóng văn minh thứ hai thay thế cho làn sóng văn minh thứ nhất.

Nền văn minh của đợt sóng thứ hai đã đưa nhân loại tiến đến một bước phát triển cao nhưng mặt khác cũng đang tạo ra những khủng hoảng mới mang tính toàn cầu: môi trường sinh thái bị đe dọa, ô nhiễm đại dương và không khí, tầng ozon bị phá thủng, nguồn năng lượng lấy từ lòng đất ngày càng cạn kiệt, bệnh AIDS đã trở thành hiểm họa của loài người... Về chính trị: phong trào đòi ly khai, chiến tranh tôn giáo sắc tộc ngày càng sâu sắc. Khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn. Tâm lý con người bị ức chế, gia đình tan vỡ, tệ nạn xã hội tràn lan, tỷ lệ người không tìm thấy lẽ sống gia tăng...

Tất cả các hiện tượng xã hội nêu trên thoạt nhìn có vẻ phức tạp, nhưng theo A.Toffler, tất cả đều có chung một nguồn gốc là do nền văn minh công nghiệp đã đi vào giai đoạn bế tắc. Khi nền sản xuất dựa trên cơ sở điện cơ khí không còn phù hợp, nó đòi hỏi một sự chuyển giao công nghệ mới của nền văn minh hậu công nghiệp và kéo theo đó là hàng loạt những thay đổi khác: "Đợt sóng thứ ba mang cùng với nó một lối sống mới thực sự dựa vào các nguồn năng lượng đa dạng đổi mới, đưa vào những phương pháp sản xuất sẽ làm cho hầu hết các đường lối tập hợp xí nghiệp trở nên lỗi thời: vào những gia đình mới phi hạt nhân, vào một thể chế mới có thể nói là ngôi nhà điện tử và vào những trường học và những Công ty của tương lai đã thay đổi triệt để”. Nền văn minh viết một bộ luật mới về hành vi chúng ta và đưa chúng ta vượt qua sự tiêu chuẩn hoá, sự đồng bộ hoá và sự tập trung hoá, vừa qua sự tập trung năng lượng tiền tệ và quyền lực.

Nền công nghiệp mới dựa trên cơ sở nguồn năng lượng có thể tái sinh, vừa hạn chế được nguồn năng lượng vừa hạn chế được mức độ ô nhiễm môi trường. Điện tử và máy tính ngày càng đem lại những biến đổi lớn về diện mạo của nền nenè kinh tế với những ngành sản xuất hiện đại: Công nghiệp nghiên cứu và khai thác đại dương có nhiều triển vọng, công nghệ gen với những thành quả của di truyền học đã cho phép loài người bước vào ngưỡng cửa của lĩnh vực chế tạo ra "vật liệu sống”. Trong lĩnh vực y học - phòng, chữa bệnh hay cải thiện giống nòi, cũng như lĩnh vực sản xuất lương thực, hay các hợp chất nâng cao chất lượng cuộc sống, công nghệ di truyền đã đem lại những kết quả đặc sắc.

Trong đợt sóng thứ ba một vấn đề nổi trội là phi đại chúng hoá. Với nền văn minh công nghiệp (đợt sóng thứ hai), mục tiêu phấn đấu là sản xuất hàng loạt để bán, còn trong làn sóng thứ ba, sản xuất thay đổi theo hướng "nhỏ trong lớn” để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ từng người, từng nhóm người với mục tiêu cụ thể trong xã hội. Việc sản xuất và tiêu thụ dần dần khắc phục được hiện tượng phân tách, sản xuất linh hoạt và năng động hơn khi vừa để dùng vừa để bán. Việc sản xuất trước đây chỉ trong nhà máy, nay có thể chuyển về từng gia đình trong "ngôi nhà điện tử" của mình, bởi nó không yêu cầu 100% lực lượng sản xuất phải có mặt tại công xưởng. ở một số nước phát triển như Mỹ, Nhật, nhiều cơ sở sản xuất lớn đã cho phép từ 35 - 50% nhân công làm việc tại "ngôi nhà điện tử" của mình. Khi đó toàn bộ hoạt động của cuộc sống, từ cấu trúc của gia đình, quy trình giáo dục, sự hình thành cá tính tới toàn bộ hệ thống sở hữu - quyền lực cũng sẽ thay đổi theo.

Nhiều khái niệm trước đây được coi là phù hợp trong làn sóng thứ hai, nay đã trở nên lỗi thời. Ví dụ, thời gian, không gian dường như giờ đây đã mất đi tính tuyệt đối chỉ còn là tương đối, hiệu suất, hiệu quả cũng được nhìn nhận lại: tới nay các nhà kinh tế học chỉ so sánh sự khác nhau trong việc sản xuất cùng một sản phẩm hoặc dịch. vụ, họ ít khi so sánh hiệu suất nó trong khu vực B (sản xuất để bán) đối với hiệu suất tiêu sản nó trong khu vực A (sản xuất để tự tiêu). Ngay những khái niệm như "thu nhập", "phúc lợi", "nghèo khổ” hoặc "thất nghiệp" cũng phải xem xét cho phù hợp khi cuộc sống xã hội thay đổi theo đợt sóng thứ ba.

Khi nói về cuộc "siêu đấu tranh" cho một nền văn minh mới trong tương lai, Alvin Toffler đã nêu rõ: "Một nền văn minh mới đang xuất hiện trong cuộc sống chúng ta.... Nền văn minh mới ấy mang đến cùng với nó những phong cách gia đình mới, những cách làm việc, yêu đương và sông biên đổi, một nền kinh tế mới, và vượt lên trên tất cả những điều này, nó còn mang đến một ý thức đã thay đổi. Hôm nay, những mảng của nền văn minh mới ấy vẫn đang tồn tại. Có hàng triệu người đã chuyển cuộc sống của họ theo nhịp điệu của ngày mai. Còn những người khác, khiếp sợ đang tháo chạy tuyệt vọng và đang cố khôi phục lại cái thế giới đã sinh ra họ đang chết dần".

Đợt sóng văn minh thứ ba với nền kinh tế tri thức cũng kéo theo những biến động không nhỏ đối với cuộc sống con người và tạo nên một kiểu văn hoá tổ chức và hoạt động xã hội hoàn toàn khác, không giống như các design được lặp đi lặp lại, trước đây. Biểu hiện rõ nét nhất là ảnh hưởng của "ngôi nhà điện tử" đến hoạt động cộng đồng, tâm lý cá thể, phương thức quản lý lao động, đến môi trường và nhiều vấn đề kinh tế khác.

Trước hết là ảnh hưởng đến hoạt động cộng đồng: ở một số nước phát triển như ở Mỹ, Anh và Nhật, trong nhiều lĩnh vực công nghệ cao người lao động được phép làm việc tại "cabinet" của mình tại nhà. Với cách làm việc như vậy trước hết, người lao động sẽ giảm được những di chuyển cơ học bắt buộc, tránh được stress do ồn ào, khoảng cách và ô nhiễm. Trong khi, như một đại diện ủy ban sức khoẻ tâm thán tại Washington đã thông báo rằng: khoảng 1/4 tổng số công dân nước Mỹ mắc những hình thức của những stress trầm trọng về xúc cảm và hầu như không có gia đình nào ố nước Mỹ lại không có người mắc một hiện tượng hỗn loạn nào đó về tâm thần thì hình thức làm việc mới có thể là một giải pháp tốt để giảm thiểu những hiện tượng này. Tuy nhiên, khi hoạt động cá nhân tăng lên thì những hoạt động cộng đồng lại giảm sút quan hệ cộng đồng vì thế cũng trở nên thiếu chặt chẽ hơn. Trong khi, yêu cầu của một nền văn minh đang tới là cần phải tạo ra một đời sông cảm xúc hoàn hảo và một bầu khí quyển tâm lý lành mạnh thoả mãn cả 3 nhu cầu của cá nhân về cộng đồng, cấu trúc và ý nghĩa thì chính những ảnh hưởng của mô hình sản xuất trên đây đã tạo ra mâu thuẫn cho bản thân xã hội của họ.

Về tâm lý cá nhân: khi làm việc tại nhà với các hoạt động trí óc, người lao động một mặt, có điều kiện chủ động sắp xếp công việc, tiết kiệm thời gian, độc lập trong tư duy sáng tạo, nhờ đó tăng cường được vai trò và trách nhiệm cá nhân. Mặt khác, khi con người đã quen vôi một nếp làm. việc chủ động và ít có sự phối hợp giữa các đồng nghiệp thì tính kỷ luật lao động cũng đồng thời giảm sút, khác hẳn so với phương thức làm việc của những hoạt động sản xuất dây chuyền trước đây.

Phương thức quản lý nhân sự và tổ chức lao động cũng trở nên linh hoạt hơn. Người quản lý sẽ không đánh giá hiệu quả lao động bằng số giờ làm việc mà đánh giá bằng số lượng và chất lượng sản phẩm làm ra. Ngay cả nhà quản lý cũng có thể vẫn tổ chức và điều khiển công việc mọi nơi mọi lúc, không cần tới một sự giám sát chặt chẽ. Tuy nhiên, phương thức hoạt động này chỉ có được hiệu quả cao khi người lao động đạt được một trình độ tự giác cao, có một cấu trúc gia đình và chế độ sinh hoạt đặc thù.

Về môi trường: khi những di chuyển bắt buộc của người lao động giảm thiểu, trước hết là hệ thống giao thông cũng bớt căng thẳng và do đó môi trường được cải thiện. Hệ thống ngôi nhà điện tử ít nhiều sẽ phân tán nhu cầu năng lượng tập trung, do đó con người sẽ tận dụng được nhiều hơn năng lượng tự nhiên, như mặt trời gió và các năng lượng khác... hạn chế việc dùng nhiên liệu gây ô nhiễm lớn cho môi trường.

Về kinh tế, khi người lao động hạn chế được di chuyển, phương tiện đi lại sẽ không phải là vấn đề cần đặt ra. Lao động trí óc không đòi hỏi nguồn năng lượng như sản xuất công nghiệp mà chủ yếu chỉ là điện năng với một công suất không lớn. Trong bối cảnh đó, nhu cầu sản phẩm của một số ngành công nghiệp nặng như khai thác dầu mỏ, sản xuất ôtô có thể giảm hơn, nhưng ngược lại các ngành công nghệ cao như điện tử, viễn thông lại phát triển mạnh, trở thành xương sống của nền kinh tế. Trong một xã hội với phương thức sản xuất như vậy, người lao động khi đã có các thiết bị điện tử có nghĩa là họ đã sở hữu các phương tiện sản xuất, dẫn tôi việc quan hệ sản xuất mới ra đời.

Khi cuộc sống của con người được xây dựng trên cơ sở của nền kinh tế phi đại chúng, họ ý thức ngày càng cao về thời gian, hình thức và hiệu quả, tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần mới trong cuộc sống. Khi gia đình có nguy cơ tan vỡ, thì hôn nhân được giả thiết chỉ như việc cung cấp bạn đồng hành với sự hỗ trợ, chia sẻ về tâm sinh lý. Trong bối cảnh đó, đạo đức thị trường trở nên chiếm ưu thế dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa cá nhân, nó phân loại người trong cộng đồng theo mức độ sở hữu của cải, vật chất. Ngoài ra, đạo đức tiêu dùng sẽ đánh giá con người căn cứ vào những sản phẩm họ làm ra được.

Khi mọi tầng lớp xã hội tiếp cận với vấn đề sản xuất và tiêu dùng đòi hỏi thông tin quảng cáo phải phát triển đến mức đại chúng hoá. Tuy nhiên, trong thông tin qua truyền hình và sách báo, ngôn ngữ của một số quốc gia có nền kinh tế phát triển như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức... trở nên chiếm ưu thế hơn, trong khi đó nhiều ngôn ngữ mẹ đẻ của các dân tộc chậm phát triển hơn lại bị rơi vào tình trạng suy thoái, thậm chí có nguy cơ diệt vong.

Nhịp sống thay đổi se ảnh hưởng tới đời sống văn hoá và nghệ thuật. Nền văn hoá tự nó đang bị phi tiêu chuẩn hoá. Con người ngày nay giàu có, được giáo dục và đối diện với nhiều khả năng chọn lựa trong cuộc sống hơn nên cũng có xu hướng từ chối các hình thức đại chúng hoá. Nhịp sống mới và cá nhân hoá trong công việc, trong tiêu dùng có thể thục hiện được nhờ những công nghệ điện tử hiện đại.

Khi cấu trúc của xã hội thay đổi, gia đình con người cũng cần vận động để thích nghi. Những tính cách của con người trong đợt sóng thứ ba được hình thành từ sụ thôi thúc nội tâm của cá nhân và ảnh hưởng của xã hội. Họ phải là những người trách nhiệm, với những mục tiêu cuộc sống thiết thực nhưng cũng biết chấp nhận rủi ro, có thể xử lý những nhiệm vụ lớn, nhanh chóng thích nghi với các tình huống thay đổi và dễ dàng hoà nhập.

Nói như trên, không phải A.Toffler không thấy hoài nghi rằng: Liệu sự thay đổi của công nghệ và các cuộc nổi dậy của xã hội có phải là sự kết thúc của tình bạn, tình yêu, sự cam kết, tinh thần cộng đồng và sự chăm sóc đối với nhau hay không? Trước những thách thức của nền văn minh mới đang tôi gần, A.Toffler đã đề xuất những giải pháp nhằm xây dựng một bầu khí quyển tâm lý lành mạnh với những tính cách xã hội mới, đó là: tấn công vào cô đơn, tăng cường giao tiếp cộng đồng từ xa bằng truyền thông, tái thiết lại cấu trúc cuộc sống, lành mạnh hoá các hoạt động tín ngưỡng...

Bằng cách tiếp cận của mình, A.Toffler đã tìm cách cắt nghĩa riêng về bản chất của các giai đoạn phát triển và sự vận động của cuộc sống con người. Ông đã chỉ ra những tiềm năng hấp dẫn của Đợt sóng thứ ba, đến những băn khoăn và sự lý giải về nó: Đột nhiên chúng ta phát hiện ra rằng bản thân những điều kiện, dù có gây nên nhưng nguy hiểm lớn nhất ngày nay, cũng đồng thời mố ra những tiềm lực mới hấp dẫn. Đợt sóng thứ ba sẽ chỉ cho chúng ta những tiềm lực mới đó.

Nguồn:
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Xu hướng tiêu dùng về tình cảm?

    12/11/2019Kiều HảiSo với 30 năm trước, tuổi kết hôn đã tăng thêm gần 3 tuổi, với nam và hơn 2 tuổi, với nữ. Đó là kết quả cuộc điều tra toàn quốc về gia đình lần đầu tiên, vừa được Bộ Văn Hóa Thể Thao – Du lịch và UNICEF công bố. Cuộc điều tra cũng mang lại những con số “ biết nói” về tình trạng ly thân, ly hôn…
  • 7 đại xu hướng 2010 - Sự Vươn Lên Của Chủ Nghĩa Tư Bản Có Ý Thức

    05/01/2010Bảy xu hướng lớn làm thay đổi công việc, đầu tư và cuộc sống của bạn. Chúng ta đang đón nhận một sự thay đổi trong kinh doanh – nhìn nhận một cách sâu xa thì đó là thành tựu của công nghệ thông tin và chính trị toàn cầu...
  • Sáu xu hướng truyền thông xã hội năm 2010

    10/12/2009David Armano* - Hoàng Thu Thủy dịchNăm 2009, chúng ta đã chứng kiến tốc độ tăng trưởng theo cấp số nhân của truyền thông xã hội. Theo Nielson Online, chỉ tính riêng Twitter đã tăng 1,382% vào tháng 2 so với cùng kì năm ngoái, đạt hơn 7 triệu lượt truy cập trên tổng số lượt truy cập trong tháng. Trong khi đó, Facebook cũng tiếp tục vượt xa MySpace.
  • 6 xu hướng của giới trẻ Việt năm 2008

    31/12/2008Lan HươngNăm 2008 khép lại không có những “scandal” hoành tráng nhưng cộng đồng giới trẻ Việt vẫn chứng kiến sự lên ngôi của một số xu thế, cả trên giảng đường, trong không gian ảo lẫn trong cuộc sống thật.
  • Những xu hướng ra đời từ tháng 5/1968.

    10/11/2008Nhóm phóng viên Quốc tế-Hội nhậpCách đây 40 năm, thế giới bàng hoàng vì các phong trào đấu tranh của sinh viên. Có phong trào đấu tranh thành cuộc cách mạng lớn khiến nhiều hệ thống chính trị Phương Tây phải thay đổi. Nhiều xu hướng, phong cách sống, hệ tư tưởng…..đã được định hình trong năm 1968 ( trước đó, hoặc sau đó một năm). Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam thời ấy cũng có vai trò như một tác nhân quan trọng phía sau những phong trào sinh viên này...
  • Phát triển giáo dục trong xu hướng toàn cầu

    23/07/2007Phạm ThắngHầu hết các quốc gia trên thế giới đều lấy giáo dục phổ thông làm nền tảng và coi giáo dục Đạihọc là yếu tố quyết định chất lượng nguồn nhân lực. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, tùy thuộc vào điều kiệnkinh tế- xã hội của mình, mỗi quốc giacó thể nhấn mạnh các khía cạnh khác nhau trong chiến lược phát triểngiáo dục Đại học...
  • xem toàn bộ