Sức mạnh của nỗi buồn

06:03 CH @ Thứ Tư - 22 Tháng Giêng, 2014
Bảo Ninh, trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, đã nhìn nhận nỗi buồn như một cảm giác người căn bản nhất. Nỗi buồn chính là sức mạnh giúp con người chiến đấu và chiến thắng cả sự tàn khốc của chiến tranh lẫn sự phi nhân trong đời sống hòa bình. Với tác phẩm, nỗi buồn quy định cơ chế vận hành của văn bản. Với nhân vật chính, Kiên, nỗi buồn vừa có tính di truyền, vừa là sức mạnh kích hoạt hành động viết và duy trì khát vọng sống...

Nỗi buồn đã có lúc bị xem là cảm giác tiêu cực. Trong giai đoạnchiến tranh, nó bị cho là đáng sợ đến mức mà đã có những chủ trương cấm không được ủy mị, khôngđược buồn. Hậu quả của những chủ trương đó, các nhà thơ như Hữu Loan, Quang Dũng phải gánhchịu1. Nhưng nỗi buồn là một cảm giác người, một cảm giác mà thiếu nó, con người sẽkhông là con người. Các nhà văn nhà thơ Việt Nam thấu hiểu điều đó nên đã dùng nỗi buồn để đối lậplại sự phi nhân của chiến tranh. Chiến tranh có thể hủy diệt mọi thứ, nhưng nó không ngăn đượcngười ta cảm thấy buồn, cảm thấy đau khổ. Chiến tranh có thể giết chết người, nhưng không thể giếtchết được tính người. Nỗi buồn bị cấm đoán, người ta sợ nó làm mất dũng khí. Nhưng thực ra chínhnỗi buồn làm nên sức mạnh cho những người lính chiến đấu và chiến thắng. Không phải sự thù hận, màlà nỗi buồn. Yêu nước trước hết là đau buồn vì đất nước bị xâm lăng, bị nô lệ. Nỗi đau buồn đó làmột trong những cảm xúc khởi thủy của những trạng thái cảm xúc khác trong chiến tranh, là sức mạnhnguồn cội từ đó hình thành nên mọi sức mạnh khác mà người Việt Nam đã có trong chiến tranh.

Thế nên, bất chấp mọi cấm đoán, những câu thơ như "Đôi mắt người Sơn Tây/ u uẩn chiều lưu lạc /buồn viễn xứ khôn khuây", những bài thơ như Màu tím hoa sim trong thời chiến vẫn được lưu truyềnrộng rãi dù là không công khai và chúng gìn giữ phẩm chất người cho cả một dân tộc. Không một sựcấm đoán nào có thể khiến con người nơi đây từ bỏ phẩm tính người. Họ đã gìn giữ những câu thơ,những tác phẩm diễn tả tâm hồn, diễn tả đời sống tinh thần của họ. Những câu thơ như vậy, hay nỗibuồn chiến tranh là những dấu hiệu cho thấy dân tộc này là dân tộc của những con người chứ khôngphải là những cỗ máy chỉ biết phục vụ chiến tranh hay phục vụ thể chế một cách vô điều kiện. Gìngiữ và truyền bá những tác phẩm văn chương nghệ thuật thể hiện nỗi buồn trong một hoàn cảnh như vậychứng tỏ cộng đồng này đã tìm cách bảo vệ quyền tự do làm người, bảo vệ nhân tính của mình.

Chính trong tinh thần này mà cần đọc lại tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.

Ngay từ trang đầu tiên ta đã nghe thấy giọng của nỗi buồn cất lên. Chính nó, dù tác giả chưa gọitên. Chưa gọi tên nhưng đã cấp cho nó một diện mạo. Nỗi buồn tạc dáng vẻ của nó vào không gian,khắc sự hiện diện của nó vào thời tiết, triệu về kẻ đồng hành chết chóc của nó: chiến tranh. Nỗibuồn chảy ra từ mưa, bốc lên từ những gói hài cốt, nỗi buồn phả ra từ không khí ướtát.2

Âm hưởng của nỗi buồn lan tỏa suốt từ đầu đến cuối tiểu thuyết. Nó là âm thanh chủ đạo. Âm thanhcủa nỗi buồn vượt lên trên mọi âm thanh khác ở thời chiến. Nó trở thành một thứ âm thanh cứu rỗi.Chính nỗi buồn giữ cho con người vẫn còn là con người trong cái cỗ máy xay thịt của chiến tranh; nókhiến con người, dù bị hủy diệt bởi bom đạn sắt thép, vẫn đứng cao hơn bom đạn, sắt thép. Vì nỗibuồn không phải là âm thanh gào rú của máy bay, không phải là tiếng gầm của bom, tiếng nổ của pháo,tiếng rít của đạn. Nỗi buồn là âm thanh "của tâm hồn con người trong cuộc xung đột với chính nó,điều duy nhất có thể tạo ra tác phẩm hay, bởi đấy là điều duy nhất đáng để viết, đáng để thống khổvà nhọc nhằn"3. Tôi trích ý của Faulkner trong diễn từ nhận giải Nobel để nói như vậy.Gìn giữ nỗi buồn trong cảnh tàn sát và chém giết diễn ra hằng ngày của chiến tranh cũng có nghĩa làchống lại sự tàn lụi của tính người, chống lại sự hủy diệt con người. Faulkner còn nói rõ ông từchối điều gì: "Tôi từ chối chấp nhận sự tàn lụi của con người. […] Tôi tin tưởng rằng, con người sẽchiến thắng. Nó bất tử không phải vì giữa muôn loài nó có một tiếng nói không mệt mỏi, mà là vì nócó một linh hồn, một tinh thần có khả năng trắc ẩn, hy sinh và nhẫn nại. Bổn phận của nhà thơ vànhà văn là viết về những điều ấy. Đó là đặc quyền của hắn để giúp con người chịu đựng bằng cáchnâng cao tâm hồn mình, bằng cách nhắc nhở con người về sự can đảm, danh dự, hy vọng, kiêu hãnh,trắc ẩn, tình thương và sự hy sinh, những gì đã từng là vinh quang trong quá khứ củahọ."4 Faulkner được biết đến như một nhà cách tân quan trọng của tiểu thuyết thế kỷ XX,và như ta thấy, trong diễn từ nhận giải Nobel này, ông đã không nói về kỹ thuật văn chương. Đối vớiông, sáng tạo kỹ thuật là gì? Là "sáng tạo ra từ những chất liệu của tinh thần con người một cái gìtrước đây chưa từng có". Và nếu văn chương quan trọng thì bởi vì nó "là những điểm tựa, những trụcột giúp con người chịu đựng và chiến thắng"5. Bảo Ninh đã viết trong tinh thần này, ông cho chúngta thấy rằng nỗi buồn chính là một chất liệu của tinh thần con người, là điểm tựa nhân tính giúpcon người chịu đựng và chiến thắng.

Cái đẹp được bảo tồn trong nỗi buồn. Nỗi buồn là hiện thân của cái đẹp. Nỗi buồn nâng cao tâm hồn con người. Do vậy, nỗi buồn ở đây không phải là biểu hiện của sự yếu đuối, ủy mị, mà trái lại chính là sức mạnh của nhân tính, sức mạnh của cái đẹp.
Nỗi buồn giúp con người tồn tại trong chiến tranh với tư cách là con người, nó giúp con người rakhỏi chiến tranh mà vẫn còn là người. Ở cuốn tiểu thuyết này, mọi cảm giác tiêu cực: sợ hãi, bấtlực, cảm giác nhục nhã, tàn bạo, cảm giác chiến bại, tuyệt vọng, niềm vui sống sót mang tính phinhân (niềm vui không cưỡng lại được khi người khác chết mà mình thì còn may mắn được sống), cảmgiác căm thù… tất cả đều được thanh lọc trong nỗi buồn, tất cả đều được thanh tẩy trong ánh sángcủa nỗi buồn. "Nỗi buồn chiến tranh trong lòng người lính có cái gì tựa như nỗi buồn của tình yêu,như nỗi nhớ nhung quê nhà, như biển sầu lúc chiều buông trên bến sông bát ngát." (90) Các hồi ứcthời hậu chiến cũng được kết thúc trong sự cứu rỗi của nỗi buồn: "Tuy nhiên bao nhiêu sợ hãi và đauđớn, uất giận và căm hờn, những trạng thái tinh thần bạo liệt đã co giật và giằng xé trong lòng anhkhi ấy trước tình cảnh kinh khủng quá sức chịu đựng ấy, không còn có thể trỗi dậy cùng với hồitưởng. Bây giờ đây chỉ có nỗi buồn, mênh mang nỗi buồn - nỗi buồn được sống sót, nỗi buồn chiếntranh - tràn phủ tâm hồn anh" (206)


Tranh: Lê Thiết Cương

Cũng vậy, sẽ rất sai lầm trong việc tiếp nhận tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, nếu chỉ nhấn mạnhkhía cạnh "con quỷ" trong Chí Phèo, nếu chỉ nhấn mạnh khía cạnh nạn nhân của nhân vật, mà khôngthấy hết giá trị cái chết của Chí. Đó là một cái chết có ý nghĩa7. Cái chết của một con người cókhả năng từ chối sự tồn tại vật lý để bảo vệ các giá trị người của mình, để bảo vệ các giá trị tinhthần của mình. Chí Phèo thực ra ý thức rất rõ về hành động cuối cùng, về lựa chọn cuối cùng, dù nhàvăn đã cố tình "đánh lừa" độc giả bằng cách đặt Chí vào tình trạng say. Trước khi đi tìm giết BáKiến, Chí Phèo đã uống rất nhiều . Nhưng "càng uống càng tỉnh. Tỉnh ra, chao ơi buồn". Buồn đến mức"hắn ôm mặt khóc rưng rức". Chí Phèo đã hành động, đã chết với một ý thức hoàn toàn tỉnh táo, vớisự "kiêu ngạo" và "dõng dạc" cất tiếng đòi làm người lương thiện. Điều đáng nói ở đây là : cái cảmgiác mà Chí có trước khi chết là cảm giác buồn. Và cảm giác mà Chí có sau khi tỉnh dậy vào buổisáng hạnh phúc đầu tiên cũng là cảm giác buồn. Tính người trong Chí hồi sinh cùng với quátrình trỗi dậy càng ngày càng mãnh liệt của cảm giác buồn: từ "mơ hồ buồn", đến "chao ôi là buồn",rồi "hắn nôn nao buồn", "trong quan niệm của nhiều nhà văn Việt Nam, nỗi buồn chính là cảm giácngười căn bản nhất. Nỗi buồn là phần sâu thẳm của đời sống tinh thần. Chí nói rõ với Bá Kiến: "Chỉcòn một cách... biết không ?" Chỉ còn một cách là chết đi để có thể làm người. Chí phải chết để bảovệ phần người đã phục sinh trong Chí. Nam Cao cũng nói chính điều đó: con người có thể chết nhưngnhân tính không thể bị hủy diệt. Chí Phèo là một con người chân chính, con người đã dám lựa chọncái chết để bảo tồn tính người thay vì kéo lê một sự tồn tại có tính thú vật. Nam Cao cũng diễn đạtcái điều mà Faulkner tin tưởng: "con người sẽ chiến thắng". Cái chết của Chí Phèo chính là sự chiếnthắng của con người.



Mọi trạng thái kinh khủng, tàn bạo, chết chóc của chiến tranh cũng được hòa vào trong nỗi buồn.Chiến tranh để lại, trên những vùng đất mà nó tàn sát, không chỉ là sự hủy diệt, mà còn là cái nỗibuồn đã trở thành đặc trưng của mọi sự tồn tại trên mảnh đất đó: "đi đêm ở vùng này có thể nghethấy chim chóc khóc than như người", "các loại măng lại nhuốm một màu đỏ dễ sợ đến vậy, đỏ au nhưnhững tảng thịt ròng ròng máu". Có thể nhìn nhận những miêu tả này như là dấu hiệu của phong cáchkinh dị, ma quái. Nhưng cũng có thể nhìn thấy ở đó sự hiện diện của nỗi buồn, những đau đớn củachiến tranh vẫn còn tiếp diễn nơi những sinh vật sống.

Tại sao nỗi buồn có khả năng cứu rỗi? Vì nỗi buồn chính là tâm hồn, là một phương diện của tâm hồncon người. TÂM HỒN. Từ này vang lên nhiều lần trong tác phẩm. ["Giấc mơ lay thức tâm hồn Kiên"(29), "Nhưng mà tâm hồn tôi thì đã ngưng bước lại ở những ngày tháng ấy" (43), "ở ngoài tầm với củatâm hồn anh" (47), "theo dần năm tháng tâm hồn anh càng ngày càng chín muồi hơn cái khát vọng thểhiện thiên chức thiêng liêng của đời mình" (49), "cũng như Kiên, hầu hết anh em ở đội hài cốt đã rakhỏi chiến tranh với một tâm hồn tràn ngập bóng tối tang thương" (88). "Dường như bóng tối của giờiđất khẳng định bóng tối trong tâm hồn anh" (115), "mặc cảm về sự què quặt hiển nhiên của tâm hồnmình" (123); "Tâm hồn anh trong đau khổ dường như đã biến hình" (183)…] Song hành với từ "tâm hồn"là một từ khác: TRÁI TIM. ["trái tim của anh, trái tim thực thụ của người lính chiến không đời nàocho phép anh ra tay hành động như vậy" (28), "và trái tim tôi run rẩy nhói đau" (44)…] Nghịch lýcủa chiến tranh là như vậy, giữa bạo lực tàn khốc, giữa sự hủy hoại mù quáng, giữa một thế giới phinhân thì những gì sâu sắc nhất thuộc về nhân tính, tâm hồn, trái tim, lại hiện ra một cách lồnglộng. Kiên hoàn toàn chắc chắn là anh có một tâm hồn. Anh dùng từ đó, "tâm hồn tôi", một cách tựnhiên, anh biết rất rõ nó tồn tại, anh biết rõ nó là gì.

Nỗi buồn không chỉ đưa con người siêu vượt guồng máy chiến tranh. Nhờ nó Kiên mới có thể tồn tạitrong hòa bình. Không có nỗi buồn, có lẽ cuộc sống sẽ chỉ còn là một sự chịu đựng dai dẳng. Nhờ nỗibuồn mà Kiên vẫn thực sự sống. Nhờ nó mà Kiên biết thế nào là cái đẹp và giá trị. Nỗi buồn đã giúpKiên hồi sinh trong hành động viết. Nỗi buồn là sức mạnh kích hoạt hành động viết. Với Kiên thờihậu chiến, sống có nghĩa là viết, hành động có nghĩa là viết. Và viết là để tìm lại nỗi buồn chiếntranh, tìm lại cội nguồn của nhân tính. Thật nghịch lý, đối với Kiên, chiến tranh mang lại sức mạnhcho tâm hồn con người, còn những tấn thảm kịch của đời sống thường nhật đã làm tàn lụi những sứcmạnh đó, đã hủy diệt tâm hồn. Bảo Ninh, vào thời điểm viết cuốn tiểu thuyết, đã nhận thấy điều này:tâm hồn dường như trở thành một thứ xa xỉ phẩm trong đời sống hiện tại. Đời sống không chiến tranhnày đã hủy hoại nhân tính với một tốc độ mà ta không lường trước được. Nỗi buồn chiến tranh, đóchính là cái đẹp mà đời sống thời bình đã đánh mất. Đối với Kiên, nỗi buồn đó gắn với hai thứ đẹpnhất: tình yêu và tự do. Hai thứ đó phải chăng giờ đây đã là quá khứ ? Đấy là lý do vì sao Kiên cứđuổi theo mãi những hồi ức về thời đã qua: "Từ chân trời dĩ vãng ngọn gió buồn vô hạn của tình yêuvà tự do như là niềm tiếc nuối không nguôi cứ mãi thổi hoài qua thành phố, qua làng mạc, và trongđời tôi…" (46).

Hồi ức khiến quá khứ trở thành hiện tại. Hồi ức khiến hiện tại bị xâm chiếm, bị thay thế bởi quákhứ. Thế nên, Kiên suốt đời phải sống trong cuộc chiến đó. "Trở về sau chiến tranh, cho đến tận bâygiờ, tôi đã phải chịu đựng hết hồi ức này đến hồi ức khác, ngày này qua ngày khác, đêm thâu nàythấu đêm thâu kia thử hỏi đã bao năm ròng?" (44). "Thì ra cuộc đời tôi kỳ thực có khác nào conthuyền bơi ngược dòng sông không ngừng bị đẩy lui về dĩ vãng. Đối với tôi tương lai đã nằm lại ởphía sau xa kia rồi. […] những tấn thảm kịch của quá khứ đã nâng đỡ tâm hồn tôi, tạo sức mạnh tinhthần cho tôi thoát khỏi vô tận những tấn trò đời hôm nay" (45). Quá khứ chiến tranh, oái ăm thay,lại là nguồn nuôi dưỡng tâm hồn, lại là nguồn sức mạnh tinh thần, lại là thứ mà Kiên không muốnquên, không thể quên khi đối diện với tấn trò đời của thời bình. Kiên nhiều lần nhấn mạnh điều này: "Chút lòng tin và lòng ham sống còn lại trong tôi không phải do những ảo tưởng mà là nhờ sức mạnhcủa hồi tưởng" (45). Hồi ức về chiến tranh có sức mạnh cứu rỗi, có khả năng duy trì niềm tin. Hồiức đó gắn liền với nỗi buồn và tình người. Máu, sự chết chóc được hóa giải trong nỗi buồn đó. Trongchiến tranh người ta ý thức được mình là một con người, người ta biết hành động như thế nào cho racon người. Đó là ý nghĩa của sự hy sinh, của lòng can đảm, vị tha… khi đối diện với toàn bộ tínhphi nhân của cuộc chiến. Còn đời sống thời hậu chiến diễn ra theo chiều hướng nào? Người ta khôngcòn dám đối mặt với sự phi nhân được ngụy trang nhân danh tồn tại. Và nhân tính dần dần bị đánh mấtnhân danh quyền được sống. Cuốn sách do vậy không chỉ có giá trị phản chiến, nó còn có ý nghĩa cảnhtỉnh, nó cảnh báo về sự hủy diệt nhân phẩm của những thảm kịch xã hội trong đời sống không chiếntranh.

Xã hội hòa bình mà trong đó Kiên đang sống là một xã hội như thế nào để đến nỗi một người cựu chiếnbinh phải đi tìm niềm tin và sức mạnh trong hồi ức về cuộc chiến tranh mà anh đã vui mừng thoátkhỏi nó? Cách đặt vấn đề này của tác phẩm khiến ta có thể xếp Bảo Ninh không chỉ vào hàng ngũ củacác nhà văn viết về chiến tranh, mà còn có thể xếp ông vào hàng ngũ những nhà văn viết để cảnh tỉnhvà bảo vệ các giá trị người theo nghĩa phổ quát. Tác phẩm của Bảo Ninh là một tác phẩm nghệ thuật.Bởi nó được viết ra trong mục đích tìm kiếm, bảo vệ, và duy trì cái đẹp. Ở đây chúng tôi nhấn mạnhkhía cạnh này: cái đẹp được bảo tồn trong nỗi buồn. Nỗi buồn là hiện thân của cái đẹp. Nỗi buồnnâng cao tâm hồn con người. Do vậy, nỗi buồn ở đây không phải là biểu hiện của sự yếu đuối, ủy mị,mà trái lại, chính là sức mạnh của nhân tính, sức mạnh của cái đẹp. Xã hội có thể bất công, có thểthối nát, có thể tàn bạo, nhưng nếu các cá nhân trong xã hội đó còn nỗ lực đi sâu giải mã nội tâm,tìm hiểu về sự thật của chính mình, còn theo đuổi, tìm kiếm, gìn giữ phẩm giá người, gìn giữ cáiđẹp, thì vẫn còn hy vọng, vẫn còn có khả năng thay đổi.

***

Ở Kiên, sống đồng nghĩa với viết, và viết đồng nghĩa với hồi tưởng. Hồi ức trả lại cho Kiên sứcmạnh. Hồi ức đòi được hiện hữu, đòi có một hình hài, đòi được vật chất hóa, nghĩa là đòi Kiên phảighi lại, phải viết. Tác phẩm của Kiên được phát động từ một sức mạnh buồn bã. Nhờ nó mà Kiên có thểsống sót. Nhờ nó mà Kiên hồi sinh. Kiên hồi sinh vào quá khứ, chứ không phải là hồi sinh từ quákhứ6. Ngòi bút của anh chỉ có một con đường: lần trở lại dĩ vãng, làm sống lại sức mạnh được hunđúc từ dĩ vãng, được cất giấu trong quá khứ. Sứ mệnh của Kiên là phải trở thành nhà tiên tri củathời quá khứ. "Ánh sáng của nỗi buồn soi về quá khứ, ấy cũng là ánh sáng thức tỉnh, ánh sáng cứurỗi của đời anh. Bằng sự trầm mình sâu xa trong hồi tưởng, trong nỗi đau buồn chiến tranh không baogiờ nguôi mà anh sẽ tồn tại đến trót đời với thiên chức là một cây bút của những người đã hy sinh,là nhà tiên tri những năm tháng đã qua đi, người báo trước thời quá khứ" (208). Tại sao lại báotrước thời quá khứ? Thật kỳ lạ. Cứ như thể tương lai sẽ được làm bằng quá khứ, hay quá khứ chính lànội dung của tương lai. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ, sẽ thấy sự sâu sắc của ngòi bút Bảo Ninh khi xâydựng nên nhân vật - người tiên báo quá khứ - này. Đến một ngày người ta sẽ phải quay lại để nhìnnhận cái quá khứ chiến tranh ấy như nó vốn tồn tại trong thực tế, với tất cả mọi sự thật của nó;chứ không phải chỉ trình bày nó ở những khía cạnh người ta muốn trình bày, chỉ nhìn nó ở những khíacạnh mà người ta muốn nhìn. Chừng nào các sự thật về cuộc chiến còn chưa được hiển lộ, chừng nàoquá khứ còn chưa hiện diện trong toàn bộ tính chân thực của nó, chừng đó vẫn còn chưa có ký ức lịchsử (hoặc chỉ có một thứ ký ức lịch sử giả mạo) và chừng đó quá khứ vẫn chưa phải là quá khứ. Trongý nghĩa này Kiên là nhà tiên tri của những năm tháng đã qua.


TS. Nguyễn Thị Từ Huy

Xã hội có thể bất công, có thể thối nát, có thể tàn bạo, nhưng nếu các cá nhân trong xã hội đó còn nỗ lực đi sâu giải mã nội tâm, tìm hiểu về sự thật của chính mình, còn theo đuổi, tìm kiếm, gìn giữ phẩm giá người, gìn giữ cái đẹp, thì vẫn còn hy vọng, vẫn còn có khả năng thay đổi.

Có hai dòng hồi ức chính: hồi ức về chiến tranh và về tình yêu. Bắt đầu bởi hồi ức về chiến tranhvà kết thúc bởi hồi ức về tình yêu, ở đoạn khốc liệt nhất, đau đớn nhất, chết chóc nhất của mốitình không tàn phai ấy.

Cuốn sách đề cập đến những chủ đề lớn: chiến tranh, hòa bình, cái chết, cuộc sống và tình yêu. Nóđặt câu hỏi: sống là gì? và đâu là khả năng tồn tại của tình yêu ? Có những lúc Kiên thực sự phânvân giữa cuộc chiến và Phương, giữa lý tưởng và tình yêu. Kiên đã có ý nghĩ ở lại bên Phương, vĩnhviễn, nhưng rồi "chiến tranh tình yêu của tôi" (189). Kiên đã lựa chọn như nhân vật Le Cid củaCorneil. Đúng hơn Kiên đã lựa chọn điều mà các thanh niên Việt Nam đã lựa chọn vào thời điểm đó,nói cách khác là Kiên không có lựa chọn. Cuộc chiến đó là ý nghĩa của cuộc sống, là giá trị làmngười. Rồi Phương bị cưỡng hiếp trên con tàu đưa Kiên vào chiến trận, bị cưỡng hiếp bởi những kẻcùng chiến tuyến với Kiên. Thú tính. Vậy ra thú tính không chỉ trỗi dậy khi người ta buộc phải bắngiết, khi người ta bị buộc phải đứng về những phe đối lập nhau. Nó có thể hiện diện khắp nơi, cóthể trỗi dậy khắp nơi. Mối tình bất thành của Kiên là nạn nhân của thú tính nơi con người, một thứthú tính ở tầm phổ quát, chứ không chỉ là nạn nhân của chiến tranh, khi mà thú tính trở thành mộtphản ứng có điều kiện.

Mối tình của Kiên và Phương không bao giờ tàn phai, nhưng bất thành. Đây là lời giải thích đau đớncủa Phương về việc tại sao hai người sống cạnh nhau trong cùng một hành lang mà không thể đến đượcvới nhau, không thể trọn vẹn thuộc về nhau : "Ký ức chẳng buông tha. Chúng mình đã lầm tưởng rằngcó thể vượt qua được một hạt sạn. - Phương nói với anh khi bỏ ra đi - Không phải là hạt sạn mà làmột quả núi. Lẽ ra lần ấy em nên chết đi… Như thế thì chí ít em vẫn là cái gì tốt đẹp trong trắngđối với anh. Còn bây giờ em sống, sống cạnh anh nhưng em là vực thẳm xấu xa và đen tối của đời anh.Phải không Kiên?" (80) Kiên đã làm Phương cảm thấy nhơ bẩn bằng những phản ứng tức thời trên contàu khi biết rằng Phương bị làm nhục, khi bỏ đi không một lời từ biệt để Phương phải tìm kiếm mộtcách tuyệt vọng ở thị xã Thanh Hóa. Kiên tiếp tục khiến cho Phương cảm thấy mình nhơ bẩn khi trở vềsau chiến tranh, khi hai người đã thử cùng chung sống. Kết cục là Phương phải thốt lên: "Đôi khi emcảm thấy mình như một con vật" (146). Phương ra đi cùng người họa sĩ già, như một giải pháp duynhất để giải thoát cho cả hai người, để cô còn có thể cảm thấy mình là một con người. Kiên đã khôngbiết làm thế nào để giúp Phương thoát khỏi ám ảnh về sự nhơ bẩn, nhục nhã. Kiên không biết làm cáchnào để vượt qua cái hạt sạn đã trở thành quả núi ấy, không còn biết hành động như một người bìnhthường, không còn biết yêu, biết quên như một người bình thường. Kiên không bằng cả người đàn ôngtrong câu ca dao: "Giữa đường nhặt cánh hoa rơi / Hai tay nâng lấy cũ người mới ta". Kiên khôngbằng cả cái anh chàng nho sinh họ Thúc, người đã biết nâng niu giá trị của một cô gái lầu xanh nhưKiều. Chiến tranh đóng vai trò gì trong việc tình yêu của anh bị hủy hoại như vậy bởi chính anh?Chính ở sự bất lực này của Kiên, sự yếu đuối này của Kiên mà cuốn tiểu thuyết giúp ta nhận thấytoàn bộ tính chất phức tạp của tâm hồn con người. Kiên đau buồn mắc kẹt trong tấn bi kịch mà khôngai ngoài anh có thể hóa giải nổi. Cả cái bi kịch này nữa cũng tắm trong ánh sáng của nỗi buồn, mộtthứ ánh sáng lạnh, sâu, nhức nhối, sưởi ấm cuộc đấu tranh nội tâm của con người.

Không phải ngẫu nhiên mà Kiên có biệt hiệu là "Thần Sầu". Kiên là hiện thân của nỗi buồn. Kiên mangtrong mình một nỗi buồn truyền kiếp, được cha anh trao lại trong lời trối cuối cùng của ông: "khôngcòn những bất hạnh lớn lao nữa… Nhưng nỗi buồn thì không nguôi… vẫn sẽ còn lại nỗi buồn… nỗi buồntruyền kiếp. Cha chẳng để lại gì được cho con ngoài nó, nỗi buồn ấy." (126) Hẳn ông biết rằng đó làmột gia tài quý giá mà không một tài sản vật chất nào có thể so sánh nổi. Cuộc đời Kiên là một nỗibuồn dài dằng dặc; mọi nỗi buồn đều biến thái từ nỗi buồn nguyên thủy ấy. Nó giúp anh không chỉnâng cao tâm hồn mà còn kết nối anh với những người khác. "Chúng tôi còn có chung một nỗi buồn, nỗibuồn chiến tranh mênh mang, nỗi buồn cao cả, cao hơn hạnh phúc và vượt trên đau khổ. Chính nhờ nỗibuồn mà chúng tôi đã thoát khỏi chiến tranh."(257-258). Nhờ nỗi buồn mà Kiên chống lại sự tàn lụicủa tâm hồn, chống lại sự suy tàn của con người. Nỗi buồn cũng là tài sản duy nhất mà anh để lạitrên mớ giấy tờ lộn xộn và trên những dòng chữ rối loạn. Kiên bỏ đi, có thể là đã chết. Nhưng nỗibuồn của Kiên tiếp tục sống cùng với người đàn bà câm, và tiếp tục sống với tất cả mọi người khibản thảo của anh được công bố. Cùng với nỗi buồn mà anh sẽ tiếp tục tồn tại.

Sẽ như thế nào nếu nỗi buồn chết đi mà con người vẫn sống ?

--------------
1
Vấn đề này cần được đào sâu và xem xét trong toàn bộ lịch sử của nó thì mới có thể cắtnghĩa được hiện tượng: buồn từng là điệu hồn của các nhà thơ mới rồi sau đó bị coi là tiêu cực, bịcấm đoán (rất nên nghiên cứu về sự cấm đoán cảm giác người này để hiểu thêm những chuyện khác)trong một thời gian dài, thậm chí kể cả sau khi chiến tranh kết thúc, cảm giác buồn vẫn cứ bị cấmđoán, cứ như thể nó là tội lỗi. Bằng chứng là cuốn sách của Bảo Ninh phải đổi nhan đề ở lần xuấtbản đầu tiên: "Nỗi buồn chiến tranh" bị biến thành "Thân phận tình yêu".
2 "Nửa đêm mưa xuống. Một màn mờ mỏng, dịu như sương, êm lặng rơi hầu như không thànhtiếng. Tấm bạt xe cũ nát lấm tấm dột. Nước mưa rỉ xuống thong thả rỏ giọt lên những bọc ni lông góihài cốt tử sĩ xếp lát trên sàn xe. Không khí ẩm sánh lại, quánh ướt, từ từ lùa những ngón tay dàingoằng lạnh toát vào bên trong bọc võng. Chảy rào rào buồn buồn, miên man như là dòng thời giantrôi thành tiếng, nghe nửa tỉnh nửa mơ. Cả trong lẫn ngoài giấc ngủ đều một đêm tối như bưng và mịtmùng hơi ẩm. Gió ướt rượi thở dài. Tự nhiên có cảm giác tuồng như chiếc xe bỗng dưng rời chỗ, imlìm lăn bánh, chạy êm ru, không cần động cơ, không người cầm lái, một mình mộng du trên con đườngrừng cô quạnh. Và âm thầm lẫn trong tiếng suối là tiếng thở dài của rừng sâu nghe vời vợi xa xôi vàtuyệt mù hư ảo như là âm vang vọng lại từ một thời nào đó, như là tiếng của lán lá vàng rơi trênthảm cỏ từ lâu lắm rồi." (Nỗi buồn chiến tranh, NXB Văn học, bản in năm 2009, tr. 5-6. Kể từ đâycác trích đoạn của tác phẩm sẽ được chú thích số trang đặt trong ngoặc đơn).
3 Diễn từ nhận giải Nobel Văn học của William Faulkner, năm 1950. Trích theo bản dịchcủa Phan Đan và Phan Linh trong cuốn Âm thanh và cuồng nộ, NXB Hội Nhà văn, 1992, tr. 391.
4 Âm thanh và cuồng nộ, sđd, tr. 392.
5 Âm thanh và cuồng nộ, sđd, tr. 392.
6 "Kiên tin rằng anh đã phục sinh, nhưng là một sự phục sinh lùi về sâu xa. Sẽ mỗi ngàymột lùi xa hơn, sẽ không ngừng phục sinh trong chuỗi dài tái hiện. Có vẻ như anh đã tìm ra cuộc đờimới của mình: đấy chính là cuộc đời đã qua, là tuổi trẻ đã mất đi trong nỗi đau buồn chiến tranh"(83).
7 Dù rằng từ một góc độ khác, cái chết đó bộc lộ sự yếu đuối của con người cá nhân bịkhuất phục trước ý thức cộng đồng. Chúng tôi đã phân tích điều này trong bài viết "Ý thức cộng độngvà số phận cá nhân".
Nguồn:
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Nỗi buồn lớn của doanh nhân nhỏ

    08/04/2016Nguyễn Mạnh Hùng“Có một thứ tài sản duy nhất trên thế gian này ta cho đi không hề bị mất đi mà lại được thêm. Đó là tri thức”. Câu nói này của tôi luôn vang lên tại bất cứ buổi nói chuyện, hội thảo hay toạ đàm nào về sách và văn hoá đọc trên khắp mọi miền đất nước.
  • Sinh viên và... nỗi buồn của sách!

    22/05/2015Linh Thoại"Tuổi thanh niên nên đến với sách như đi vào cuộc đời để tìm bạn". Đó là một trong những lời khuyên quý báu của André Maurois - nhà văn Pháp. Thế nhưng đọc sách có còn là một niềm vui tao nhã, một nhu cầu học hỏi không thể thiếu, nhất là đối với sinh viên - một bộ phận thanh niên được xem là trí thức trẻ ngày nay?
  • Nỗi buồn lễ hội

    19/02/2011TS. Phạm Duy NghĩaXuân đến, phồn thịnh và náo nhiệt, ấy cũng là mùa của những lễ hội. Tựa sợi dây nối tiền nhân với hậu thế, lễ nhắc người ta về đạo làm người. Hội là cuộc vui cộng thể để dồn sức cho cuộc mưu sinh đầy nhọc nhằn. Giúp gắn kết, tăng niềm tin và sức mạnh dân tộc, lễ hội là một phần thân thuộc và tự nhiên ngày qua ngày bồi bổ nên cốt cách văn hóa của con người Việt Nam.
  • Nỗi buồn từ người trẻ

    25/03/2010Nguyễn Thế ThịnhThời gian gần đây, mật độ xuất hiện của cụm từ "nữ sinh đánh nhau" ngày càng dày đặc. Gõ vào Google cụm từ này sẽ hiện lên hơn 3,2 triệu kết quả. Đó là một con số khủng khiếp ẩn chứa nhiều điều khủng khiếp...
  • Mứt nỗi buồn đại trà

    09/02/2010Công ThắngKhông biết dì Út tôi học từ lúc nào mà làm mứt, nấu chè ngon có tiếng ở cái thị xã nhỏ miền Trung quê tôi. Bởi vậy, mỗi mùa Tết, không đợi ai mở lời, dì Út cũng hăng hái ôm hết cái khoản cung cấp mứt cho cả đại gia đình.
  • Điện ảnh Việt Nam: Nỗi buồn... duy cảm

    27/01/2006Nguyễn Kim KhánhNăm 2005 của điện ảnh Việt Nam (ĐA VN) khép lại với trên 10 phim nhựa được trình chiếu - một con số quá nhỏ của nền điện ảnh đang “tụt dốc”. Khủng hoảng vẫn là hai từ chuẩn xác và ngắn gọn nhất để chỉ tình trạng này...
  • xem toàn bộ