Triết học nghệ thuật của Schelling

09:57 SA @ Chủ Nhật - 15 Tháng Hai, 2009

Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và phân tích quá trình hình thành và phát triểntư tưởng của Schelling về nghệ thuật qua các giai đoạn: triết học tự nhiên, triết học tiên nghiệm, triết họcđồng nhất, triết học tựdo và mặc khải. Trênbình diện triết học nghệ thuật, Schelling không chỉlà một mắt xích, một vòngkhâu trong tiên trình phát triển của triết họccổ điển Đức, mà còn là sự tiếpnối, sự vượt qua Cantơ, Phíchtơ và là một trong những tiềnđề xuất phát của mỹ học Hêgen.Với nhữngđóng gópđó Schellingđã trở thành một trong những nhà lậpluận của chủ nghĩa lãng mạn Đức. Trong bài viết này, tác giả cũngđã đưa ra những đánh giá về hạn chế vàđóng góp của Schelling từ lập trường mỹ học macxít.

Friedrich Wilhelm Joseph von Schelling (1775 - 1854) là một gương mặt sáng giá của triết học cổ điển Đức. Các học thuyết triết học của hầu hết các nhà triết học cổ điển Đức sau Schelling , ít nhiều, đều chịu ảnh hưởng của ông. Không chỉ là người khơi thông và tiếp nối dòng chảy từ Phíchtơ đến Hêgen, những tư tưởng của ông còn có ảnh hưởng lớn lao đến đời sống tinh thần của châu âu thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, hơn nữa, nhiều phương diện trong học thuyết của ông đã được lý giải, tiếp nhận và phát triển trong những giai đoạn khác nhau. Sự tác động mạnh mẽ của Schelling vào triết học Nga qua các nhà triết học tự nhiên, như Đ.V.Velanxki, M.G.Páplốp, M.A.Mắcximôvích... và nhóm "yêu sự thông thái" ở Mátxcơva, rồi cả V. Xalôviép, là điều không thể phủ nhận. Ở thế kỷ XX, những tư tưởng của Schelling đã được tiếp nhận và phát triển trong triết học đời sống và triết học hiện sinh. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đánh giá cao phép biện chứng trong triết học tự nhiên, cũng như học thuyết phát triển của Schelling, coi đó là những nhân tố quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành triết học của Hêgen.

Sự phát triển tư tưởng triết học của Schelling là một quá trình lâu dài và phức tạp. Trong quá trình suy ngẫm triết học của ông, chúng ta thấy nổi lên ba khái niệm vô cùng quan trọng: tự nhiên, đồng nhất và mặc khải. Ba khái niệm cơ bản ấy đã được cụ thể hóa trong các công trình cơ bản của ông như triết học tự nhiên (từ giữa những năm 90 của thế kỷ XVIII), chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm (1800 - 1801), triết học đồng nhất (trước 1840), triết học tự do (trước 1813) và cuối đời là triết học mặc khải.

Chủ nghĩa lãng mạn nảy sinh và phát triển vào thời kỳ lịch sử giữa cách mạng Pháp năm 1789 và cách mạng dân chủ tư sản châu Âu năm 1844. Chủ nghĩa lãng mạn là một bước ngoặt trong lịch sử văn hóa, nghệ thuật và tư tưởng thẩm mỹ của ChâuÂu. Trên bình diện lịch sử, chủ nghĩa lãng mạn đã thay thế trào lưu Khai sáng. Tuy nhiên, việc đối lập trực tiếp hai trào lưu này với nhau không đem lại cho chúng ta khả năng hiểu biết những đặc điểm của chủ nghĩa lãng mạn. Những nghiên cứu lịch sử cụ thể đã chỉ ra rằng, các đặc điểm quan trọng nhất của chủ nghĩa lãng mạn đã được chuẩn bị bởi thời đại Khai sáng. Mỹ học của chủ nghĩa lãng mạn được xây dựng trên cơ sở của hai tiền đề giá trị học:

1) Nghệ thuật là một giá trị cao quý nhất,

2) Người nghệ sỹ là thiên tài, là một kiểu mẫu cao cả. Đó cũng chính là sự tôn sùng nghệ thuật, tôn sùng tự nhiên và tôn sùng cá tính sáng tạo.

Những vấn đề này ít nhiều đã được Schelling đề cập đến qua các tác phẩm đã nói ở trên trong quá trình tìm kiếm, xây dựng và phát triển lý luận mỹ học của mình.

Đối với các nhà lãng mạn, nghệ thuật là hình thái hoạt động tinh thần cao nhất, vượt lên trước cả giác tính và lý tính. Nôvalisơ đã tuyên bố rằng, thi ca là nữ thần của triết học rằng, triết học là lý luận về thi ca. Hơn nữa, ông còn khẳng định rằng, trong tương lai không xa, mọi người sẽ chỉ đọc các tác phẩm nghệ thuật. Nhà thơ thấu hiểu tự nhiên hơn các nhà khoa học, vì thi ca trực tiếp bắt nguồn từ tự nhiên. Tự nhiên không bao giờ cạn, nó vô cùng vô tận, phong phú hơn, phức tạp hơn tất cả những cái mà khoa học đã biết về nó. Bởi thế, nhà thơ - nhà lãng mạn nói về tự nhiên có một cái gì đó lớn hơn so với người bình thường. Nhà thơ sùng kính và ngưỡng mộ cái siêu nhiên thần bí và chưa được biết trong tự nhiên. Tài năng và cá tính sáng tạo của người nghệ sỹ là sức mạnh vừa tự nhiên, vừa siêu nhiên và thần bí. Nghệ sỹ là công cụ vô ý thức của lực lượng cao cả. Nghệ sỹ thuộc về tác phẩm của mình, nhưng tác phẩm lại không thuộc về anh ta.

Schelling đã tiếp nhận và bổ sung, phát triển cả ba luận điểm ấy với những suy ngẫm riêng trong hệ thống mỹ học củamình. Tư tưởng thẩm mỹ của Schelling đã được trình bày và phát triển ở "Hệ thống chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm về mối quan hệ của nghệ thuật tạo hình với tự nhiên", đặc biệt là trong "Triết học nghệ thuật" và được coi là cơ sở thế giới quan của các nhà lãng mạn Đức. Schelling đã trở thành lãnh tụ tư tưởng của chủ nghĩa lãng mạn Đức ở thời kỳ đầu, rồi đến lượt mình, chính các đại biểu của chủ nghĩa lãng mạn Đức lại có nhiều ảnh hưởng tới ông. Nóichung, trong hệ thống của Schelling, cương lĩnh mỹ học của chủ nghĩa lãng mạn đã tìm thấy sự thể hiện khái quát triết học nhất.

Trong "Hệ thống chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm", Schelling đã xem xét những vấn để mỹ học gắn với việc xây dựng hệ thống triết học của mình. Ông tìm kiếm một khả năng nhận thức mà ở đó, dường như những mặt đối lập của nhận thức, những mâu thuẫn giữa chủ thể và khách thể, tự do và tất yếu đều được cởi bỏ với tư cách khái niệm xuất phát của hệ thống này. Ông coi khái niệm "trực cảm lý trí" chính là khái niệm cần tìm kiếm. Sự phân hóa bất tận của chủ thể và khách thể, cái “Tôi" và cái không phải “Tôi" tạo nên đối tượng chủ yếu trong triết học và mỹ học của Phíchtơ đã được khắc phục ở Schelling trong lực cảm lý trí. Đối với Schelling, "trực cảm lý trí" đã trở thành công cụ chủ yếu để nhận thức triết học. Hơn nữa, thưởng ngoạn thẩm mỹ là hình thức cao nhất của "trực cảm lý trí". Thưởng ngoạn thẩm mỹ là khách quan, có giá trị chung và cần thiết cho mọi hình thái nhận thức. Xác định vị trí của thưởng ngoạn thẩm mỹ trong hệ thống của mình, Schelling đã viết: "Toàn bộ hệ thống dường như được triển khai giữa hai cực đối lập nhau mà một cực là thưởng ngoạn lý trí, còn cực kia là thưởng ngoạn thẩm mỹ...Thưởng ngoạn lý trí là cần thiết chỉ ở mục đích định hướng tinh thần và được thể hiện chỉ trong triết lý, khi nó vẫn còn ở ngoài vòng ý thức thông thường, thưởng ngoạn thẩm mỹ... có tính khách quan và phổ biến, nảy sinh ở mọi ý thức". Như vậy, ở mức độ thẩm mỹ, sự thưởng ngoạn là có tính khách quan và phổ biến. Tính phổ biến là quan trọng, bởi theo Selinh, không phải ai cũng hiểu được triết học. Do vậy, triết học nằm ngoài giới hạn "ý thức thông thường", còn thưởng ngoạn thẩm mỹ lại được thể hiện ở mọi ý thức. Nghệ thuật cao hơn triết học, bởi lẽ, dù cho triết học có đạt tới những độ cao hùng vĩ nhất thì ở những độ cao ấy, nó cũng chỉ lôi cuốn được một phần nhỏ của con người, còn nghệ thuật cho phép đạt tới độ cao ấy với con người nguyên vẹn. TheoSelinh, tự nhiên đã tìm thấy sự hoàn tất của mình trong sáng tạo nghệ thuật và trong nghệ thuật, sự tự ý thức lại đi tới tự nhiên. Cái mà chúng ta vẫn gọi là tự nhiên, rất cuộc, chỉ là một bản trường ca được ẩn giấu dưới những chữ viết bí ẩn và kỳ diệu. Schelling hoàn toàn tán đồng sự tôn thờ thiên nhiên của chủ nghĩa lãng mạn. Trong triết học tự nhiên, ông lưu tâm nhiều đến giới hữu cơ, đến sự sống, còn ở đây, trong thế giới tinh thần, ông coi nghệ thuật là cái giữ vai trò như vai trò của cơ thể trong tự nhiên. Tác phẩm hữu cơ của tự nhiên là sự hài hoà không chia cắt, còn tác phẩm nghệ thuật là sự kết hợp hài hoà sau khi đã có sự phân chia. Người nghệ sỹ đã tái tạo lại thế giới trong tác phẩm nghệ thuật của mình. Chính ở đây, lý luận sáng tạo của Schelling đã thể hiện sự tổng hợp độc đáo những quan điểm trái ngược nhau của thời kỳ lãng mạn, đã vượt qua chủ nghĩa chủ quan trong lý luận sáng tạo của Slegen. Theo ông, vào lúc khởi đầu của quá trình sáng tạo, người nghệ sỹ trải qua cảm giác về sự phân rã vô cùng tận - cái cảm giác mà Slegen đã cảm nhận thấy, nhưng trong kết quả, anh ta lại đi đến sự hài hoà vô tận - cái hài hoà dã được thể hiện trong tác phẩm nghệ thuật của mình.

Để hiểu mỹ học của Shelling, không thể không nói đến diễn văn được đọc tại ViệnHàn lâm nghệ thuật Muynkhen vào ngày 12/10/1807 với tiêu đề "Mối quan hệ của nghệ thuật tạo hình với tự nhiên". Từ sớm, Schelling đã quan tâm đến mối quan hệ này. Song, mỗi lần đề cập đến mối quan hệ đó, ông luôn có những suy nghĩ mới. Trong bài diễn văn này, ông cho rằng, nhiệm vụ của nghệ thuật là bắt chước tự nhiên. Theo ông, sự khủng hoảng của lý luận bắt chước tự nhiên chỉ nảy sinh khi người ta hiểu nó một cách phiến diện, một chiều: bắt chước các hình thức của tự nhiên. Những nghệ sỹ vĩ đại của quá khứ chẳng bao giờ cho phép mình bắt chước một cách hình thức như thế cả. Họ luôn luôn mang vào nghệ thuật sự thấu hiểu tự nhiên, khởi nguyên tinh thần và ý nghĩa nào đó. Nhưng những ý định bắt chước các tác phẩm nghệ thuật vĩ đại cũng trở nên vô nghĩa như việc bắt chước các hình thức của tự nhiên, bởi trước mắt chúng ta chỉ là những kết quả của họat động tinh thần, chứ không phải là bản thân họat động ấy. Tất cả các nghệ sĩ vĩ đại đều xuất phát từ tinh thần của thời đại mình để họat động, còn lịch sử nhân loại là một quá trình phát triển tinh thần liên tục mà mỗi một giai đoạn mới lại đòi hỏi những hình thức mới. Do vậy, việc bắt chước các nghệ sỹ vĩ đại một cách thực sự là muốn nói đến sự sáng tạo ở đây và chính ở lúc này, cái chủ quan và cái khách quan đi tới sự hoà hợp và lý luận bắt chước tự nhiên có ý nghĩa đúng đắn của mình: quá trình sáng tạo đã tạo nên bản chất sâu xả nhất của tự nhiên.

Như vậy, người nghệ sỹ cần bắt chước không phải những hình thức của tự nhiên, mà là bản chất của tự nhiên - quá trình sáng tạo. Với quan niệm này, Schelling cho rằng, chúng ta cần phải thóat ra khỏi những giới hạn của chính hình thức này, để bằng sự thấu hiểu, lại một lần nữa, tìm thấy nó trong tính sống động và chân thật của nó. Theo ông, quá trình sáng tạo của tự nhiên là quá trình thường xuyên, không ngừng tiến tới sự trọn vẹn, thống nhất, chỉnh thể. Quá trình tiến hóa diễn ra từ tự nhiên vô cơ tới thế giới sống. ở trạng thái hữu cơ, tự nhiên dường như đang thống nhất tất cả những nỗ lực đã bị tản mát của mình trong giới vô cơ. Con người là thành tựu cao nhất của thế giới sống. Cá tính của con người thể hiện sự toàn vẹn cao nhất của tự nhiên có tổ chức. Cuộc sống bên trong của con người, lịch sử phát triển tinh thần của nhân loại là sự tiếp nối, là giai đoạn cao nhất trong quá trình sáng tạo của tự nhiên. Bởi thế, bắt chước tự nhiên không phải là bắt chước các hình thức, mà là sự thể hiện bản chất bên trong của con người. Cũng do vậy, xem xét toàn bộ tự nhiên qua lăng kính của con người là đòi hỏi bắt buộc trong sáng tạo nghệ thuật.

Mỹ học của chủ nghĩa lãng mạn đã thể hiện một cách có hệ thống nhất trong triết học nghệ thuật" của Shelling. Song, công trình của Schelling không đơn giản là hệ thống hóa, sắp xếp lại những đoạn văn rời rạc được viết rải rác trong thời kỳ này, mà sâu xa hơn, là việc xây dựng mỹ học với tư cách triết học. Cống hiến chủ yếu của ông trong tác phẩm này là ở chỗ, lần đầu tiên, cái nhìn biện chứng xuyên qua toàn bộ thế giới nghệ thuật, qua lịch sử và hình thái của nó từ cấp độ quan niệm chung nhất đến những tác phẩm nghệ thuật đơn nhất, cụ thể đã được đặt ra.

Nếu trong "Hệ thống chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm", Schelling mới chỉ đề cập đến mỹ học trong sự gắn bó với các vấn đề chung của triết học, thì trong "Triết học nghệ thuật", ông đã xây dựng một hệ thống mỹ học hoàn chỉnh. Có thể nói, sau "Phê phán năng lực phán đoán" của I.Cantơ, "Triết học nghệ thuật" là tác phẩm xuất sắc về mỹ học trong dòng triết học cổ điển Đức.

Thật vậy, nghệ thuật luôn có một vị thếtinh thần lớn lao, nhưng điều đó không có nghĩa rằng sự vô trật tự, hỗn loạn của nghệ thuật có quyền thống trị trong đầu của nhà triết học. Triết học là khoa học, nhưng cũng là phi khoa học. Với tư cách là phi khoa học, triết học hướng tới sự chiêm nghiệm và tưởng tượng. Với tư cách là khoa học, nó đòi hỏi phải có hệ thống. Nếu phương pháp kiến tạo, cơ cấu hệ thống đã tỏ ra thích hợp trong triết học tự nhiên thì giờ đây Schelling lại muốn tiếp tục áp dụng nó vào triết học nghệ thuật. Phương pháp kiến tạo của ông đối lập với sự nghiên cứu "bác học" về lịch sử thẩm mỹ - cái được xây dựng trên cơ sở của các sự kiện và nghiên cứu kinh nghiệm. Mục đích của triết học nghệ thuật không chỉ dừng lại ở nghiên cứu nghệ thuật mà là kiến tạo nghệ thuật, nghĩa là lấy toàn bộ các hiện tượng và những đặc trưng của nó từ khái niệm "cái tuyệt đối”. Định nghĩa khái niệm là chỉ ra vị trí của nó trong hệ thống vũ trụ. "Kiến tạo nghệ thuật là xác định vị trí của nó trong vũ trụ. Xác định vị trí này là cách định nghĩa duy nhất của nghệ thuật...".

Từ quan điểm hệ thống của Schelling thì thế giới là một chỉnh thể được phân ra thành hai mảng đối lập nhau: thế giới lý tưởng và thế giới hiện thực (tự nhiên). Sự thống nhất giữa lý tưởng và hiện thực là cái xuyên suất toàn bộ thế giới. Song chỉ ở trong thế giới lý tưởng, ưu thế trong sự thống nhất này mới thuộc về lý tưởng, còn trong thế giới hiện thực, trong tự nhiên, thì ưu thế của sự thống nhất lại thuộc về hiện thực. Nghệ thuật là sản phẩm cao nhất của thế giới lý tưởng, song nó lạihợp nhất, thống nhất thế giới lý tưởng này với thế giới hiện thực, bởi nó chính là sự khách thể hóa cái lý tưởng. Hơn nữa, các sản phẩm của sự khách thể hóa ấy là các tác phẩm nghệ thuật cũng giống như tự nhiên trong tính chỉnh thể của nó có sản phẩm cao nhất là cơ thể sống, cá thể sống. Nhưng nghệ thuật là cơ thể sống trong thế giới lý tưởng, bởi nó là sản phẩm họat động tinh thần của con người và đối với nó, con người cũng chỉ như là cái tinh thần. Đồng thời, nghệ thuật còn được khách thể hóa trong sự vật cảm tính. Xuất phát từ tính hai mặt này, Schelling đã xác định bản chất của nghệthuật trước hết là ở sự không phân biệt cái lý tưởng và cái hiện thực. Theo đó, quan điểm đồng nhất chủ thể và khách thể, lý tưởng và hiện thực đã trở thành điểm xuất phát của triết học nghệ thuật. Trong sự đồng nhất này, Schelling đã phân biệt những nhân tố mang ý nghĩa riêng biệt, do vậy, có thể xem xét nó từ phương diện lý tưởng, từ hiện thực hay không thể phân biệt rõ cái này với. cái khác. Theo ông, "sự không phân biệt lý tưởng và hiện thực là sự không phân biệt được thể hiện ở thế giới lý tưởng thông qua nghệ thuật, bởi nghệ thuật tự nó không chỉ là họat động, là tri thức, mà còn là họat động xuyên suất khoa học hay ngược lại, tri thức hoàn toàn trở thành họat động. Nói cách khác, nó là sự không phân biệt của cả cái này lẫn cái khác". Tuy nhiên, sự không phân biệt lý tưởng và hiện thực không che lấp việc nghệ thuật là một chỉnh thể hữu cơ đa phương diện và bản chất của nó không được đặt vào những khuôn khổ của một công thức chết cứng. Schelling đã xới tung những phương diện khác nhau của nó: cái chủ quan và cái khách quan, tự do và tất yếu, hữu hạn và vô hạn...Đó là các cặp phạm trù biện chứng và khái niệm cái đẹp nảy sinh trong sự giao nhau của chúng: "Cái đẹp không chỉ là cái chung hay cái lý tưởng (nó = chân lý), không chỉ là cái hiện thực (nó được biểu hiện trong hành động). Như vậy, cái đẹp chỉ là sự thâm nhập lẫn nhau, sự liên kết hoàn thiện của cái này với cái khác. Cái đẹp xuất hiện ở đâu thì ở đó, cái đặc thù (cái hiện thực) cũng xuất hiện một cách tương ứng ở mức độ như thế với khái niệm của mình. Nó là cái vô hạn nhập vào cái hữu hạn và được chiêm nghiệm trực tiếp”.

Lý giải nghệ thuật như là sự thể hiện đầy đủ và hoàn chỉnh nhất bản chất của thế giới và với hy vọng triết học nghệ thuật sẽ tạo nên tri thức tương ứng với đối tượng của nó, Schelling đã chuyển từ những đặc trưng nói chung của nghệ thuật sang những thuộc tính đặc thù của nó và đưa các phạm trù vào nghệ thuật trong tính chỉnh thể của nó. Còn hệ thống nghệ thuật được ông triển khai theo những cấp độ xem xét ngày càng chi tiết hơn, cụ thể hơn. Theo ông, mỗi tiểu hệ thống của các hình thức đều phải được đối chiếu, so sánh ở một mức độ nào đó và mỗi hiện tượng cũng phải được xem xét từ vị trí của nó trong hệ thống. Phương pháp này được ông gọi là sự kiến tạo. Với phương pháp này, ông đã xem xét nghệ thuật phương Đông cổ đại, nghệthuật Hy Lạp cổ đại và nghệ thuật Thiên Chúa giáo như là ba hình thái nghệ thuật tương quan với nhau một cách biện chứng và coi đó cũng là ba giai đoạn trong lịch sử nghệ thuật với tư cách một quá trình diễn tiến chẳng bao giờ khép kín.

Sau khi xem xét các hình thái lịch sử của nghệ thuật, Schelling tiếp tục nghiên cứu các hình thức của nó trên phương diện hình thái học. Ở phương diện này, ông cũng đã xem xét các hình thức riêng biệt, khi tính đến sự biến đổi và sự chế định lịch sử của chúng. Ở Shelling, phương diện lịch sử và phương diện hình thái học không kết dính vào nhau như ở Hêgen sau này, mà được đặt ra để đối chiếu, so sánh với nhau.

Schelling đã xem xét hình thái học nghệ thuật (các thể, loại, kiểu của nó) như một lĩnh vực của các hình thức thể hiện biểu tượng, hay ngôn ngữ biểu tượng, như sự phân hóa của một bản chất thống nhất. Toàn bộ sự đa dạng của các hình thức tạo nên một hệ chỉnh thể hữu cơ đang phát triển, một hệ thống mong muốn sử dụng toàn bộ những biến thể có khả năng của ngôn ngữ biểu tượng. Thể chế bên trong của "vũ trụ nghệ thuật" được sắp đặt để sao cho mỗi một hình thức đều có mặt đối lập đi kèm với nó, còn những mặt đối lập lại gắn bó với nhau một cách tương tự như thế ở bên trong. Như vậy, ở đây đã có sự thể hiện nguyên tắc tam đoạn luận biện chứng.

Hệ thống các hình thức được triển khai trước hết thành hai dãy - lý tưởng và hiện thực. Tất cả những hình thức của nghệ thuật ngôn từ thuộc về dãy lý tưởng chừng nào chúng tồn tại trong hình thức các ý niệm của lý tính. Những hình thức còn lại thuộc về dãy thứ hai - dãy hiện thực. Đến lượt mình, dãy hiện thực được triển khai thành ba hình thức: âm nhạc, hội họa và tạo hình. Trong dãy lý tưởng, các thể loại của nghệ thuật ngôn từ cũng tương ứng với mức độ ấy. Bởi thế, có thể nói, thơ trữ tình, sử thi và kịch chính là âm nhạc, hội họa và tạo hình ở trong ngôn từ. Mỗi một tiểu hệ thống như thế đều có những tính quy luật của chúng. Ví dụ, âm nhạc tuân theo thước do thời gian, hội họa sống trong thế giới phẳng hai chiều, còn tạo hình trong không gian ba chiều. Ngoài ra, âm nhạc và hội họa còn đối lập với nhau như lược đồ và phúng dụ (cách nói ngụ ý, bóng gió), còn tạo hình với tư cách biểu tượng chính là sự tổng hợp của chúng. Đến lượt mình, tạo hình bao gồm kiến trúc, phù điêu và tượng tròn. Ba hình thức này phản ánh đãy hình thức mà tạo hình cũng nằm trong đó: âm nhạc, hội họa và chính bản thân tạo hình. Bởi thế mà tượng tròn được xác định như "tạo hình vốn có", còn kiến trúc là "âm nhạc bị chết cứng". Đến lượt mình, âm nhạc lại được xem như là sự thống nhất của nhịp điệu, hoà âm và giai điệu, mà những nhân tố này lại tương ứng với những cơ sở vốn có của âm nhạc, hội họa và tạo hình trong kết cấu nội tại của nó.

Hệ thống hình thái học của Schelling được triển khai đến tận các thể loại riêng biệt. Đương nhiên, ở Selinh, bản chất của hệ thống nghệ thuật không chỉ là ở việc phân loại các hình thức. Dù chứa đựng một sự gượng gạo nào đó, nhưng các hình thức nghệ thuật luôn nằm trong mối liên hệ nội tại Với mối liên hệ này, chúng ta có thể hiểu được các hình thức nghệ thuật ấy.

Lần đầu tiên, nghệ thuật đã được Schelling hình dung như một hệ thống phức hợp đang phát triển một cách biện chứng. Vậy, cái mới của Schelling là ở đâu? Cái mới của Schelling chính là ở chỗ, hệ thống các hình thái nghệ thuật đường như diễn ra từ bên trong và được diễn dịch từ một cơ sở thống nhất, chứ không phải được tạo thành bởi sự đối chiếu đơn thuần những dẫn liệu có tính chất kinh nghiệm nhằm miêu tả các thông số của từng loại hình hay từng loại. Đó là kết quả của việc vận đụng phương pháp mới vào nghiên cứu nghệ thuật. Phương pháp luận của hình thái học nghệ thuật mà Schelling đưa ra là mới mẻ, độc đáo và về nhiều điểm, nó đã dự báo trước sự xuất hiện của phương pháp luận Hêgen.

Phương pháp nghiên cứu hệ thống như một chỉnh thể hữu cơ đã cho phép Schelling xem xét mỗi hình thức nghệ thuật như một chỉnh thể đa điện, có kết cấu nội tại. Phương pháp này giúp chúng ta nhận thấy rằng, quá trình triển khai hệ thống từ cái chung tới cái đặc thù thông qua việc phân tích từng hình thức bằng cách đối lập nó với những hình thức khác để đảm bảo có được sự xem xét đa dạng. Sự đa dạng này góp phần khắc phục tính công thức, sơ lược của các phạm trù đã được hệ thống hóa và giúp chúng ta hiểu một cách tổng thể từng hình thức. VớiSelinh, các hình thức của nghệ thuật không phải là hình thức thuần tuý mà là sự thống nhất của hình thức và ý nghĩa, là các hình thức mang ý nghĩa và tạo nên ý nghĩa. Từ quan niệm này, ông đã xem xét tính chỉnh thể hữu cơ của tất cả các hiện tượng nghệ thuật trong mối liên hệ chặt chẽ với nguyên tắc lịch sử, đồng thời coi nguyên tắc lịch sử là nguyên tắc xuất phát trong sự phân tích của mình. Thế nhưng, trong cái tuyệt đối của ông lại không có chỗ cho sự vận động và phát triển, cũng không có cả thời gian. Chừng nào mà hệ thống nghệ thuật phản ánh không phải cái gì khác ngoài cái tuyệt đối mà ở đó, thời gian lại ngừng tồn tại thì đương nhiên, nghệ thuật, rất cuộc, cũng bị loại trừ ra khỏi thời gian. Song, nơi dừng lại của Schelling lại là nơi bắt đầu của Hêgen trong dòng chảy triết học cổ điển Đức.

Nguồn:
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Nghệ thuật sống hay sống nghệ thuật?

    14/12/2017Thảo HươngTrong cuộc sống hàng ngày, việc cư xử với nhau sao cho khéo léo, tế nhị là rất cần thiết. Tuy nhiên, có những người lại “cư xử” quá khéo léo , đến mức trở thành “nghệ thuật”.
  • Nghệ thuật cao siêu rất đời thường

    05/12/2008Nguyễn QuânVới nghiên cứu lý luận, lịch sử văn hóa nghệ thuật thì các công trình "hàn lâm", dài hơi là phần lõi xác định tầm thâm cao của nghiên cứu. Với Phan Cẩm Thượng là các công trình uy tín như "Điêu khắc cổ Việt Nam", "Đồ họa cổ Việt Nam", "Điêu khắc Tây Nguyên", "Chùa Dâu- Tứ Pháp", "Chùa Bút Tháp"…
  • Thử bàn về giá trị và chuẩn mực nghệ thuật

    14/11/2008Trần DuyLịch sử nghệ thuật là quá trình phát triển cái đẹp, quá trình phát triển tính thẩm mỹ thông qua thị hiếu của con người, qua các thời đại. Vậy tiêu chuẩn của nghệ thuật là cái mà tự bản thân nghệ thuật có hay sở dĩ có tiêu chuẩn nghệ thuật là vì thị hiếu của con người?
  • Tính thời đại trong nghệ thuật

    11/11/2008Trần DuyMột trong những yêu cầu của nghệ thuật là phản ánh được tính thời đại nơi đã sinh ra nền nghệ thuật ấy. Tính thời đại là tính đặc trưng của quá trình phát triển và tồn tại trong một khung thời gian nhất định của một dân tộc trong những sự kiện lịch sử riêng biệt cụ thể của dân tộc ấy. Có người cho rằng hiện đại, mô-đéc, tân kỳ diễn ra hoàn toàn độc lập với tính thời đại của xã hội.
  • Nghệ thuật – tiếng nói của lịch sử con người (*)

    08/11/2008Trần DuyKhi con người nguyên thuỷ biết vẽ là loài người đã biết khẳng định sự tư duy của mình, biết phối hợp chân tay và đôi mắt có nghĩa là đã có một ý thức rõ về vũ trụ của mình. Và cũng từ lúc loài người biết lấy hang đá làm nơi ở thì “kiến trúc thích nghi với thiên nhiên” ấy đã có tranh vẽ của người tiền sử cách đây 40 nghìn năm.
  • Từ góc độ triết học, bàn về một số vấn đề cơ bản của văn học - nghệ thuật phương Tây hiện đại

    16/06/2006Nguyễn Hoàng Tuệ AnhTừ thế kỷ XVII - XVIII những lý tưởng, những chuẩn mực và nguyên tắc của khoa học đã được xác lập trên nền tảng triết học bị thống trị bởi những ý tưởng của chủ nghĩa cơ giới. Từ đó chúng thâm nhập vào mọi lĩnh vực của xã hội. Lý trí được coi là tối thượng. Một quan niệm về chủ nghĩa tiến bộ được chiếu sáng bằng hào quang của lý trí, của trí tuệ và tri thức..
  • Về tính duy nhất của nghệ thuật

    12/01/2006Bình NguyênTôi hằng tin mỗi tác phẩm nghệ thuật đều hàm chứa tính duy nhất, dù cho đôi khi chúng có sự trùng lặp nhau ở mức độ cao. Mỗi sáng tạo là duy nhất, mãi mãi duy nhất. Cái duy nhất này tự nhiên, nó toát ra từ giá trị cốt lõi của tác phẩm không phải từ những bồi đắp bề ngoài.
  • Cái đẹp nghệ thuật và đời sống xã hội

    05/01/2006Vũ Minh TâmTrong thực thể đẹp nghệ thuật dường như có tất cả mà cũng như không có riêng về một mặt nào của đời thực: quan hệ kinh tế - xã hội, chính trị, triết học, văn hóa, đạo đức, khoa học, nhân cách, lối sống và lời ăn tiếng nói, sự nghiệp vĩ đại và đời thường nhỏ nhặt, thế giới bên trong và mặt cắt bên ngoài, cá nhân và cộng đồng, xưa, nay và mai sau...
  • Giá trị thẩm mỹ và chất lượng nghệ thuật

    20/12/2005Nguyễn Văn PhúcTrên bình diện đánh giá - giá trị, chất lượng nghệ thuật của một tác phẩm được hiểu là giá trị nghệ thuật của tác phẩm đó. Nhưng bản chất của giá trị nghệ thuật là gì ? Nói khác đi những yếu tố nào quy định giá trị của tác phẩm nghệ thuật, và do đó, như thế nào là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị? v.v... Đó là những câu hỏi không dễ giải đáp.
  • xem toàn bộ