Vốn văn hoá

Wright State University
04:18 CH @ Thứ Năm - 12 Tháng Mười Một, 2009

Trong tiến trình công nghệ hoá, hiện đại hóa của chúng ta hiện nay, hai chữ "văn hoá" thường gợi nhiều cảm xúc phức tạp. Đầu tiên, nó khơi dậy lòng tự hào sâu sắc về bản sắc dân tộc, về di sản lịch sử, về truyền thống cách mạng, và trong vài năm gần đây, về "giá trị châu Á" mà nhiều người cho rằng Việt Nam chia sẻ với các nước trong vùng, giải thích những thần kỳ kinh tế ở miền dất này. Nhưng đàng khác, nó cũng gây nhiều ưu tư về nguy cơ phai lạt bản sắc quê hương, nhất là trước làn sóng toàn cầu hoá, đối với một kinh tế mở như ta hiện nay. Thêm vào đấy là một tinh thần "hoài cỗ" của thế hệ "hơi lớn tuổi" mà nơi nào bao giờ cũng có: lắc đầu chặc lưỡi về những ngông cuồng của lối sống thời thượng, biểu hiện qua những tệ nạn xã hội, những phong cách đồi truỵ của một số người "mất văn hoá".

Trong tâm trạng "vừa mừng vừa lo, vừa thương vừa giận" ấy, nhà kinh tế sẽ nói gì? Cụ thể hơn, đồng thời với phát triển kinh tế, chúng ta có thể làm được gì cho văn hoá, để tạo dựng một nước Việt Nam ngày càng tươi đẹp, phồn vinh hơn?

Song, trước hết, phải hỏi: văn hoá là gì? Theo một phúc trình của Uỷ ban Thế Giới về Văn Hoá và Phát Triển của Liên Hợp Quốc (1995) thì từ "văn hoá"có thể được hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất, văn hoá của một nước là những sinh hoạt trong "lĩnh vực văn hoá", hay là "khu vực công nghiệp văn hoá" của nước ấy. Đó là viết văn, làm thơ, soạn nhạc, tạc tượng, vẽ tranh... nói chung là những hoạt động có tính văn chương nghệ thuật. Thứ hai (nhìn theo quan điểm nhân chủng và xã hội học), văn hoá là tập hợp những phong thái, tập quán và tín ngưỡng, là nền tảng, là chất keo không thể thiếu cho sự vận hành nhuần nhuyễn của xã hội. Nó là hiện thân những giá trị được cộng đồng chấp nhận, dù có thể biến đổi từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Gần đây, nhiều học giả kinh tế và xã hội (tiên khởi là nhà xã hội học người Pháp Pierre Bourdieu) cho rằng, muốn hiểu văn hoá như một nhân tố trong đời sống kinh tế, và nhất là muốn đánh giá vai trò của nó trong tiến trình phát triển, thì nên nhìn nó như một loại vốn -- tương tự như ba loại vốn thường biết khác. (Đó là: vốn vật thể, như máy móc, thiết bị; vốn con người, như kỹ năng, kiến thức; và vốn thiên nhiên, gồm những tài nguyên do thiên nhiên cống hiến và môi trường sinh thái.)

Thêm một bước, có thể phân biệt hai dạng vốn văn hoá: vật thể và phi vật thể. Vốn văn hoá vật thể là gồm những công trình kiến trúc, đền đài cung miếu, di tích lịch sử, những địa điểm có ý nghĩa văn hoá. Loại vốn này cung cấp một luồng dịch vụ có thể hưởng thụ ngay, hoặc đi vào sản xuất những sản phẩm và dịch vụ trong tương lai, văn hoá cũng như ngoại văn hoá Dạng kia, vốn văn hoá phi vật thể, là những tập quán, phong tục, tín ngưỡng, và các giá trị khác của xã hội. Loại vốn văn hoá này (cùng những nghệ phẩm công cộng như văn chương và âm nhạc) là một loại dây, một thứ keo gắn kết cộng đồng. Nó cũng cung cấp một luồng dịch vụ có thể hưởng thụ ngay, họăc dùng trong sản xuất những sản phẩm văn hoá trong tương lai.

Từ những nhận xét trên, vài nét chính về liên hệ giữa văn hoá, kinh tế, và phát triển dần hiện rõ.

Một là, muốn hội nhập vốn văn hoá vào phân tích kinh tế ta phải xác định liên hệ giữa giá trị văn hoá và giá trị kinh tế. Lấy ví dụ vốn văn hoá vật thể, chẳng hạn như một ngôi nhà có tính di tích lịch sử. Ngôi nhà ấy có giá trị kinh tế như một kiến trúc (cư ngụ hoặc thương mại), biệt lập với giá trị văn hoá. Song giá trị kinh tế ấy có thể tăng lên, có thể là rất nhiều, nhờ giá trị văn hoá của nó. Do đó, lấy ví dụ, nhiều người sẽ sẳn sàng mua ngôi nhà đó một giá cao hơn giá trị vật thể thuần tuý của nó. Hầu như mọi loại vốn văn hoá vật thể đều có thể được nghĩ đến như ngôi nhà lịch sử trong ví dụ, tức là chúng bơm tiêm giá trị văn hoá vào giá trị kinh tế của vật thể, làm tăng thêm, có thể gấp nhiều lần, giá trị của vật thể ấy.

Trong trường hợp vốn văn hoá phi vật thể thì liên hệ giữa giá trị văn hoá và giá trị kinh tế phức tạp hơn, không phải cái này gây cái kia. Hiển nhiên, ngôn ngữ, âm nhạc và văn chuơng, tập quán và tín ngưỡng ... là những tài sản chung, có giá trị văn hoá vô cùng lớn, song chúng không có giá trị kinh tế theo nghĩa thông thường vì lẽ không thể được mua bán đổi chác trên thị trường như các hàng hoá hoặc dịch vụ khác. Nói cách khác, những dịch vụ xuất phát từ vốn văn hoá phi vật thể là có giá trị văn hoá và kinh tế, nhưng ở đây hai loại giá trị ấy hoà quyện lẫn nhau, không thể tách rời nhau.

Hai là, nên hỏi, vốn văn hoá đóng góp được gì vào tổng thu nhập và tốc độ phát triển của một nước? Trong các mô hình phân tích tăng trưởng kinh tế, có hai yếu tố luôn được coi là cốt lõi cho phát triển: lao động và vốn vật thể. Như thế, đối với các nhà kinh tế thì bài toán trở thành: nếu hội nhập vốn văn hoá vào mô hình ấy thì kết quả sẽ ra sao? Vốn văn hoá có thể thay thế các loại vốn khác, các tài nguyên khác (ví dụ như lao động), hoặc ngược lại, hay chăng? Giải đáp những câu hỏi này sẽ làm sáng tỏ nhũng tranh luận gần đây về vai trò của văn hoá trong phát triển kinh tế. Và theo đó lại thêm nhiều bài toán quan trọng: làm thế nào để đầu tư vào bồi đấp vốn văn hoá? Vốn văn hoá đó sẽ chiết cựu ra sao?

Ba là, vốn văn hoá giúp ta hiểu sâu hơn về ý niệm tính bền vững của phát triển. Đóng góp của nó vào khả năng phát triển dài hạn không khác gì đóng góp của vốn thiên nhiên. Vì môi trường sinh thái là thiết yếu cho hoạt động kinh tế, bỏ bê môi trường đó qua sự khai thác quá đáng tài nguyên sẽ làm giảm sút sản năng và phúc lợi kinh tế. Không bảo dưỡng vốn văn hoá (để di sản đồi trụy, làm mất bản sắc văn hoá dân tộc) cũng có những hậu quả tai hại như vậy.

Bốn là, chế độ thị trường và xu thế toàn cầu hóa đặt ra những thử thách và những cơ hội mới. Trong lảnh vực văn hoá, quyết định của người sản xuất cũng như người tiêu dùng ngày càng bị chi phối hơn bởi những quy luật, những tình huống kinh tế. Cũng như mọi loại hàng, văn hoá phẩm có khác nhau về hàm lượng vốn và lao động: những bộ phim vĩ đại, khoa học giả tưởng (như Star Wars), cần nhiều vốn hơn lao động; những hàng thủ công nghệ, những bài thơ hay, cần nhiều lao động hơn vốn. Văn hoá phẩm cũng khác nhau về cái mà các nhà kinh tế gọi là "hiệu ứng qui mô" (scale effects): có thứ thì giá thành càng thấp khi số luợng sản xuất càng nhiều, có thứ thì giá thành không tuỳ thuộc số lượng sản xuất.

Tất nhiên, những văn hoá phẩm cần nhiều vốn thì phải nhắm nhiều hơn vào thị hiếu "mẩu số chung" của đông đảo quần chúng toàn cầu để có thị trường (trừ khi được nhà nước tài trợ, nhưng đó lại là một chuyện khác). Điều này cắt nghĩa tại sao không thể đòi hỏi những loại phim "vĩ đại" như Star Wars, James Bond, phải có "văn hoá cao" với ít người thưởng ngoạn. Song, bù lại, toàn cầu hoá cống hiến cho người tiêu thụ nhiều lựa chọn hơn, với giá rẻ hơn (và thu nhập của họ cũng cao hơn), dù rằng, nên nói thẳng, với đời sống ngày càng bận rộn, đa số hình như có dễ dãi hơn trong thị hiếu thưởng ngoạn của mình.

Chúng ta nhìn về tương lai với một niềm tin mãnh liệt ở nước ta, nhưng không sô vanh dân tộc. Giữ gìn và phát huy di sản văn hoá dân tộc là một nhiệm vụ quan trọng, nhưng nên hiểu tại sao phải giữ gìn, phát huy, và không lo sợ một cách võ đoán và phi lý những trào lưu văn hoá mới. Phải nhìn nhận quan hệ mật thiết giữa phát triển kinh tế (toàn cầu hoá, qui mô thị trường rộng hơn, thu nhập cao hơn...) và văn hoá. Có thể, những người ưa chuộng một loại hình nghệ thuật nào đó sẽ thấy bị thiệt thòi, mất mát... nhưng đồng thời cũng phải công nhận sự năng động xuất hiện của những loại hình nghệ thuật khác, những cơ hội thưởng ngoạn mới.

Chúng ta cần một chính sách văn hoá, nhưng chính sách đó phải tôn trọng thực tế của kinh tế thị trường, trong thời đại mở cửa, không vướng mắc những ảo tưởng, cảm tính chủ quan. Có những mục tiêu mà chính sách đó có thể giúp thực hiện, nhưng cũng có những khía cạnh không thể thực hiện được (hoặc đòi hỏi những hi sinh quá lớn về kinh tế, về xã hội).

Chúng ta hảy tranh luận, bàn cãi -- vâng, và bút chiến nữa (trong tinh thần khoa học, cởi mở, không cá nhân). Nghĩ cho cùng, một nền văn hoá lành mạnh trước hết phải là một nền văn hoá sống, một nền văn hoá linh động. Hảy để người thưởng ngoạn bình chọn.

Dayton
20 tháng 12, 2002

Nguồn:Viet-Studies
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Văn hóa là sống, vun đắp và tôn vinh

    04/08/2019G.S Tương LaiThế hệ trẻ hiện nay đang cần những dưỡng chất đến từ một nền văn hóa mà trong đó, những tinh boa của truyền thống dân tộc được thăng hoa trong quá trình chọn lựa và tiếp thu những thành tựu của văn hóa và văn minh của thời đại để tăng thêm sức đề kháng chống trả những cặn bã của nền văn minh ấy. Thế hệ trẻ nói chung đã vậy, thế hệ trẻ Thủ đô càng phải như vậy.
  • Khái niệm và bản chất của văn hóa

    13/03/2017Nguyễn Trần BạtVăn hóa là một hiện tượng khách quan, là tổng hoà của tất cả các khía cạnh của đời sống. Ngay cả những khía cạnh nhỏ nhặt nhất của cuộc sống cũng mang những dấu hiệu văn hóa. Rất nhiều thứ mới thoạt nhìn thì giống nhau, nhưng nếu xem xét kỹ thì lại có những điểm riêng biệt...
  • Tính lạc hậu tương đối của Văn hoá

    25/05/2016Nguyễn Trần BạtTrong số những cuộc xung đột, những xung đột về văn hóa tuy không phải luôn hữu hình và quyết liệt, nhưng âm thầm, bền bỉ, dai dẳng và có sức cản rất lớn đối với tiến trình phát triển chung của nhân loại. Nghiên cứu về tính lạc hậu tương đối của văn hóa với tư cách một thuộc tính tự nhiên của văn hóa và ảnh hưởng của nó đối với tiến trình phát triển và toàn cầu hóa là việc làm rất quan trọng, bởi nó sẽ giúp các dân tộc hạn chế khả năng xảy ra xung đột trên cơ sở đó, khai thác những ảnh hưởng tích cực của văn hóa...
  • Thế động của văn hóa

    03/11/2014Trần Kiêm ĐoànKhi nói đến văn hóa Việt Nam, phần lớn những nhà nghiên cứu thuộc thế hệ đàn anh thường nói lên một khái niệm ước lệ như “Nước Việt ta có bốn nghìn năm văn hiến”. Đó là cách nói ở “thế tĩnh”. Coi văn hóa là một gia tài quá khứ, mang một giá trị tượng trưng và mơ hồ cần được chưng trong tủ kiếng hay cất kỹ trong cái tráp sơn son thép vàng của lòng tự hào dân tộc...
  • "Phát triển bền vững" nhìn từ góc độ xã hội và văn hóa

    25/09/2014Trần Hữu DũngTừ giữa thập niên 80 đến nay, "phát triển bền vững" đã trở thành một ý niệm thời thượng. Nó là khẩu hiệu của hàng trăm tổ chức quốc tế, đề tài của mấy cuộc hội nghị, hội thảo toàn cầu, và một tiêu chuẩn quan trọng trong chiến lược phát triển của hầu hết mọi nước...
  • Chinh phục các đợt sóng văn hóa - Những bí quyết kinh doanh trong môi trường văn hóa đa dạng

    23/08/2009Những nhà quản lý thành công phải biết thích nghi với mọi nền văn hoá, vượt ra khỏi vòng quản lý bé nhỏ của riêng mình, cùng nhau hợp thành một hệ thống vận hành chức năng hoàn hảo. Chinh Phục Các Làn Sóng Văn Hoáxoá tan đi những quan niệm rằng chỉ có duy nhất một cách để quản lý và đây là cuốn sách đầu tiên chỉ cho những nhà quản lý chuyên nghiệp cách xây dựng những kỹ năng giao thoa văn hoá cần thiết trong môi trường kinh doanh toàn cầu...
  • Một cách tiếp cận “Bản sắc dân tộc” và một cách hiểu về “nội lực”

    16/02/2009Hoàng Ngọc HiếnChúng tôi giới thiệu cách tiếp cận vấn đề "bản sắc dân tộc" trong bài Văn hoá và toàn cầu hoá: vài phân tích kinh tế của Trần Hữu Dũng (Đại học Wright State, Ohio, Mĩ và cách hiểu vấn đề "nội lực" trong bài Du nhập, chuyển giao công nghệ và năng lực xã hội: vài khảo sát kinh nghiệm ở Đông Á của Trần Văn Thọ (Đại học Waseda Tokyo, Nhật Bản)...
  • Mối quan hệ giữa các nền văn hóa

    08/02/2009Nguyễn Tấn HùngTrong bài viết này, khi chỉ ra bản chất của những mâu thuẫn giữa các nền văn hoá, văn minh, sự khác nhau giữa tôn giáo và văn minh, nguyên nhân của sự xung đột giữa các tôn giáo, sắc tộc giữa các cộng đồng dân tộc, tác giả đã đi đến khẳng định rằng, sự phát triển của văn hoá, văn minh không những không làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa các cộng đồng xã hội, mà trái lại, còn là điều kiện để các dân tộc xích lại gần nhau hơn...
  • Quan niệm của S.Freud về vai trò văn hóa trong đời sống con người

    29/12/2008Tạ Thị Vân HàPhân tích quan niệm của S.Freud về vai trò của văn hoá trong đời sống con người từ cách tiếp cận phân tâm học của ông đối với văn hoá trong bối cảnh khủng hoảng, tha hoá tinh thần của con người phương Tây hiện đại và ảnh hưởng của nó đến đời sống con người...
  • Văn hóa, triết lý và triết học

    11/12/2008Lương Việt HảiBài viết góp phần luận giải mối quan hệ giữa văn hóa, triết lý và triết học. Văn hóa là nguồn nuôi dưỡng các triết lý, các tư tưởng và hệ thống triết học, là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại và phát triển các hệ thống triết học. Các triết lý, các hệ thống triết học lại là những bộ phận cốt lõi nhất trong nền văn hóa của một dân tộc...
  • Triết học luận về “phát triển văn hóa”

    08/10/2008Ioanna Kucuradi,Từ góc độ triết học, bài viết đưa ra và luận giải một số vấn đề về phát triển văn hoá nhằm làm sáng tỏ vấn đề tại sao Liên hợp quốc ra tuyên bố về Thập niên phát triển văn hoá. Những vấn đề mà bài viết đưa ra và luận giải là: Khái niệm phát triển, nhất là vấn đề phát triển trong chính sách của các quốc gia thuộc Liên hợp quốc, những nội dung của "phát triển văn hoá", tính dân tộc và tính toàn cầu trong các quan niệm về "phát triển văn hoá", phát triển văn hoá và các chính sách văn hoá. Trong đó, đáng chú ý là những luận giải của bài viết về các nghĩa của khái niệm "văn hoá".
  • Về phương pháp luận nghiên cứu văn hóa và con người

    02/10/2008Hồ Sĩ QuýBài viết đề cập và gợi mở nhiều vấn đề liên quan đến phương pháp luận nói chung và phương pháp luận nghiên cứu văn hoá và con người nói riêng. Cụ thể là, tác giả đã đưa ra những ý kiến trao đổi xoay quanh hệ vấn đề: khái niệm phương pháp luận, phương pháp luận nghiên cứu văn hóa, phương pháp luận nghiên cứu con người, phương pháp luận nghiên cứu phức hợp, phương pháp luận về khái niệm người Việt...
  • Toàn cầu hóa về văn hoá

    13/04/2008Nguyễn Trần BạtNgoài hai xu thế là dân chủ hóa về chính trị và tự do hóa về kinh tế còn có một xu thế lớn khác là toàn cầu hóa về văn hoá. Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, người ta nói nhiều đến toàn cầu hóa nhưng chủ yếu là nói về khía cạnh kinh tế. Nói như thế là phiến diện, mặc dù nó có lý do lịch sử...
  • Cải cách văn hóa như thế nào?

    13/04/2008Nguyễn Trần BạtVăn hóa hình thành một cách khách quan, tự nhiên và mang trong mình tính lạc hậu tương đối. Cải cách văn hóa là giải pháp duy nhất để ngăn chặn những yếu tố lạc hậu tương đối của văn hóa xâm nhập và ảnh hưởng tiêu cực đến mọi lĩnh vực của đời sống.
  • Thế động của văn hóa

    12/01/2008Trần Kiêm ĐoànKhi nói đến văn hóa Việt Nam, phần lớn những nhà nghiên cứu thuộc thế hệ đàn anh thường nói lên một khái niệm ước lệ như "Nước Việt ta có bốn nghìn năm văn hiến". Đó là cách nói ở "thế tĩnh". Coi văn hóa là một gia tài quá khứ mang một giá trị tượng trưng và mơ hồ cần được chưng trong tủ kiếng hay cất kỹ trong cái tráp sơn son thếp vàng của lòng tự hào dân tộc...
  • Giao lưu văn hóa trong thời đại toàn cầu hóa

    22/08/2007GS. Hồ Sĩ VịnhGiao lưu văn hóa là một quy luật của thời đại, là hiện tượng phổ biến của xã hội loài người. Nhờ GLVH đúng hướng mà các nước chậm phát triển có cơ hội trở thành nước phát triển. Trong mọi hoạt động văn hóa Ðảng và Nhà nước ta bao giờ cũng nêu cao định đề biện chứng : kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
  • Một cách nghĩ về văn hóa

    06/11/2006Vũ Duy ThôngĐã có một thời gian khá dài tồn tại cách nghĩ văn hóa như một thành quả của quá trình lao động sản xuất. Với quan niệm đó, hưởng thụ văn hóa là sự đãi ngộ cho những nỗ lực của con người trong lao động.
  • Quan niệm của chú giải học về văn hóa

    26/10/2006Trần Quang TháiVới cách tiếp cận nhân học- văn hoá, các nhà chú giải họcđã đi đến quan niệm coi văn hoálà hệ thôngtư tưởng và ý nghĩa chungở dạng tường minh hoặc tiềm ẩn nhằm giải thích thế giới và thiết định hành vi con người...
  • Các lý thuyết mới về văn hóa

    01/09/2006Dominique Guillot (Huyền Giang dịch từ tiếng Pháp)Giải thích các quy tắc xã hội, các ý tưởng, cái tưởng tượng... từ lý thuyết tiến hóa, đó là mục tiêu của các mô hình Darwin mới về văn hóa. Một số lý thuyết ấy đem lại một tính độc lập cho văn hóa đối với những bó buộc của tự nhiên...
  • Văn hóa là gì?

    23/06/2006Nicolas JournetKhái niệm văn hóa đang trở thành thông dụng, nhưng định nghĩa của nó dường như bao giờ cũng tuột khỏi chúng ta. Dù sao sự phát triển của nó cũng gắn chặt với sự phát triển của các khoa học về con người...
  • xem toàn bộ