CNTT Việt Nam: “Thủ phạm” chính gây nên hội chứng thụt lùi?
Hàng năm, Diễn đàn kinh tế thế giời đều công bố những bản báo cáo của mìnhtrong đó quan trọng nhất là báo cáo cạnh tranh toàn cầu (Global Competitiveness Report) và báo cáo công nghệ thông tin toàn cầu (Global Information Technology Report). Báo cáo về cạnh tranh đã thực hiện từ lâu nhưng báo cáo về công nghệ thông tin mới xây dựng và thực hiện từ năm 2001-2002. Tuy là một diễn đàn về kinh tế nhưng báo cáo công nghệ thông tin toàn cầu được thực hiện như một báo cáo chính. Nội dung của báo cáo này xoay quanh một chỉ tiêu mà WEF cho là rất cơ bản: đó là Chỉ số sẵn sàng nối mạng (Networked Readinees Index) thể hiện ở một bảng so sánh về điểm số và xếp hạng cao thấp của hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trước tiên chúng tôi xin được đề cập về báo cáo cạnh tranh toàn cầu đặc biệt là các tiêu chí đánh giá về CNTT trong báo cáo này. Còn báo cáo công nghệ thông tin toàn cầu, xin được trình bày chi tiết trong một dịp khác.
Báo cáo cạnh tranh toàn cầu là một công trình đồ sộ được thiết kế hết sức khoa học và rất có uy tín vời sự tham gia của nhiều kinh tế gia hàng đầu thế giới. Mục đích của báo cáo là đánh giá định lượng và định tính khả năng cạnh tranh của các quốc gia và vùng lãnh thổ một cách nhất quán, toàn diện, chính xác đồng thời cho điểm, để có thể xếp hạng, so sánh khả năng cạnh tranh của từng quốc gia tại một thời điểm cũng như diễn biến theo từng năm. Báo cáo cạnh tranh toàn cầu đề xuất một chỉ số đánh giá tổng hợp gọi là "Chỉ số cạnh tranh tăng trưởng (the Growth Copetitiveness Index - GCI) là tổng hơn 3 chỉ số cơ bản sau:
-Công nghệ
-Định chế xã hội
-Môi trường vĩ mô
Mỗi chỉ số cơ bản lại bao gồm các chỉ số cấu thành như sau:
-Công nghệ
+ Đổi mới công nghệ
+Chuyển giao công nghệ
+ Công nghệ thông tin và viễn thông (ICT)
-Định chế xã hội
+ Hiệu lực của luật lệ, khế ước.
+ Tác động của tham nhũng.
+ Chỉ tiêu của Chính phủ.
-Môi trường vĩ mô
+ Sự ổn định của môi trường vĩ mô
+ Tín dụng trong nước.
“Chỉ số cạnh tranh tăng trưởng” (GCI), đượcWEF công bố qua bảng điểm và xếp hạng (Index Ranking) cho trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Chỉ số Cạnh tranh Tăng trưởng của WEF là một cách tiếp cận có tính dự báo cao đối với các nền kinh tế nó cho biết được xu hướng tăng trưởng trong 5, 7 năm tới của một quốc gia. Điểm để xếp hạng của GCI cao hay thấp là do điểm của các chỉ số thành phần cao hay thấp. Chỉ số nào thấp nhất chắc chắn là "thủ phạm” chính gây nên sự yếu kém cho... nền kinh tế quốc gia!
Chúng ta hãy quan sát bảng xếp hạng chỉ số cạnh tranh Tăng trưởng của Việt
Bảng xếp hạng: chỉ số cạnh tranh tăng trưởng (GCI)
Năm | Việt | Thái Lan | Trung Quốc |
2001 | 60/75 nước | ||
2002 | 65/80- | ||
2003 | 60/101- | 44/101 | 46/101 |
2004 | 77/104- | 34/104 | 46/104 |
2005 | 81/117- | 36/117 | 49/117 |
Qua bảng xếp hạng trên ta thấy so với thế giới thì tính cạnh tranh của kinh tế Việt
Đùa! Nhưng hoàn toàn không thú vị tí nào cả vì điều này đã được cảnh báo nghiêm túc từ lâu... Trên thực tế chúng ta đã một lần "không được đếm xỉa” đó là năm 2000, khi số quốc gia được đếm xỉa hãy còn ít hơn năm nay rất nhiều. Trích đoạn sau đây của tác giả Đặng Hương: (www.vnn.vn/19/11/2002) cho ta thấy rõ điều này:
Kểtừ năm 1997 WEF đưa VN vào danh sách các nước được xếp hạng. Tuy nhiên, có thể thấy vị trí của nước ta chưa bao giờ thoátkhỏi nhóm 20 nước cuối bảng. Về khả năng cạnh tranh kinh tế vi mô cũng là khả năng cạnh tranh hiện tại, năm 1997, Việt
Trên bảng, bạn đọc có thể so sánh Việt
Chỉ số cấu thành: “Công nghệ thông tin và viễn thông” (ICT sub-index)
Trong một nền kinh tế bao giờ cũng có đóng góp của rất nhiều ngành nghề, nhiều công nghệ những WEF chỉ chọn và đánh giá một công nghệ duy nhất đó là CNTT và nêu lên một chỉ số cấu thành đó là chỉ số: Công nghệ thông tin và viễn thông (ICT). Điều này một lần nữa nói lên tầm quan trọng hết sức to lớn của CNTT đối với tính cạnh tranh tăng trưởng về kinh tế của một quốc gia.
WEF định nghĩa chỉ số này được hình thành bởi 1/3 các dữ liệu mềm (định tính) và 2/3 bởi các dữ liệu cứng (định lượng) như sau:
Dữ liệu mềm: (survey data) Gồm 5 vấn đề then chốt:
- Việc truy cập Internet ở các trường học rộng rãi như thế nào?
- Có được sự cạnh tranh đầy đủ giữa các ISP trong nước nhằm đảm bảo cho sự truy cập Internet và chất lượng cao, ổn định, giá thấp hay không?
- Công nghệ Thông tin và viễn thông có phải là ưu tiên hàng đầu của Chính phủ hay không?
- Các chương trình, kế hoạch hỗ trợ, thúc đẩy CNTT của Chính phủ có thành công hay không?
- Hành lang pháp lý liên quan đến CNTT (như thương mại điện tử, chứng thực điện tử, bảo vệ người tiêu dùng) có được đẩy mạnh và triển khai đầy đủ hay không?
Dữ liệu cứng: (hard data) Gồm 5 dữ liệu then chốt:
- Số thuê bao di động trên 100 dân.
- Số người dùng Internet trên 10.000 dân.
- Số máy nối mạng Internet trên 10.000 dân.
- Số điện thoại cố định trên 100 dân.
- Số máy tính cá nhân trên 100 dân.
Qua cách khảo sát toàn diện nhưng chắt lọc những vấn đề then chốt như trên ta có thể hoàn toàn tin cậy vào các đánh giá, xếp hạng của WEF. Từ 10 tham số then chốt nói trên có thể thấy ngay muốn đẩy mạnh CNTT phát triển thì chính sách điều hành và giá cà là quyết định. Ngược lại khi tìm “thủ phạm" kìm hãm sự phát triển của CNTT thì cũng rất dễ dàng. Chúng ta vẫn tự hào với những số liệu như số người vào mạng tăng khá nhanh (nhờ số lượng các tiệm cafe Internet có dùng ADSL tăng lên) hoặc số lượng các trạm văn hoá xã có nối mạng... Tất cả nhưng tiến bộ đó đều quý nhưng vấn đề then chốt ở đây là sự sử dụng Internet cho các trường học.
Nếu học sinh, sinh viên, cũng như thầy giáo không có điều kiện thuận lợi vào mạng phục vụ cho việc học, giảng dạy, nghiên cứu, thì những điều trên chỉ là phù phiếm. Vì có thể khẳng định rằng hơn 95% người vào các dịch vụ Internct công cộng hiện nay chỉ để giải trí là chính.
Từ 2004, WEF đưa ra một chỉ số đánh giá mới gọi là chỉ số cạnh tranh kinh doanh(Bussines Competitiveness Index: BCI) chủ yếu đánh giá cho tính cạnh tranh ở mức xí nghiệp thì Việt Nam xếp hạng 79 năm 2004 và 80 năm 2005 (lại lùi!). Chúng tôi xin không đi sâu vào BCI vì nó ít liên quan tới CNTT hoặc chính xác hơn là liên quan không rõ nét.Như đầu bài đã nêu chúng tôi sẽ đề cập về CNTT trong một dịp khác qua Báo cáo Công nghệ thông tin toàn cầu (Global Information Technology Report) của WEF. Trên cơ sở này hàng năm ta có thể quan sát CNTT của Việt
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu Đổng"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngCơ hội thứ tư - toàn cầu hóa
18/04/2004Nguyễn Trần Bạt