Thư gửi các nhà khoa học trẻ Việt Nam

07:35 SA @ Thứ Bảy - 30 Tháng Giêng, 2010

GS Pierre Darriulat từng trong số những nhà khoa học hàng đầu ở trung tâm Nghiên cứu hạt nhân châu Âu CERN, nơi đang có máy gia tốc hạt lớn nhất thế giới LHC. Với tình yêu Việt Nam, năm 1998 ông về hưu sinh sống tại Hà Nội mang theo một phòng thí nghiệm nghiên cứu và đào tạo tiến sĩ về tia vũ trụ. Tham gia giảng dạy đại học, ra đề thi Olympic Vật lý quốc tế 2008, và nhiều sinh hoạt học thuật khác, ông đã nhanh chóng hoà nhập vào cộng đồng khoa học Việt Nam. Luôn bức xúc với tình trạng chảy máu chất xám mà bản thân ông đang chứng kiến ngay với những học trò do mình đào tạo ra, trước cơ hội xây dựng những đại học chất lượng quốc tế sắp đến, ông viết bài này đưa ra cách nhìn khách quan về giáo dục đại học Việt Nam và mong mỏi sự chung sức của giới khoa học trẻ để chấn hưng nền đại học nước nhà. Bài do nhà văn Nguyên Ngọc dịch.

Trong những năm gần đây, đã có nhiều tiếng nói khuyến khích các trường đại học Việt Nam nâng cao chất lượng giảng dạy của mình; xuất phát từ tâm huyết, nó chứng tỏ tình yêu sâu sắc đối với Việt Nam của những người lên tiếng, và niềm tin của họ rằng đất nước không có được trường đại học tương xứng với nó. Điều chủ yếu không phải là lên án các khiếm khuyết đã quá hiển nhiên đối với những ai chịu nhìn thẳng mà là mở mắt cho những người có xu hướng thoả mãn với tình hình hiện tại và củng cố ý tưởng cho rằng chính sách đi từng bước nhỏ có thể giải quyết được các vấn đề. Các phê phán thường đối chiếu với những đại học tốt nhất ở nước ngoài và môi trường trí thức ưu tú là đặc trưng ở đấy và phải công nhận là điều đó đang thiếu một cách nặng nề ở các trường đại học Việt Nam.

Hình như hiện nay người ta đã ý thức được ở tất cả các cấp độ về sự lạc hậu của các đại học Việt Nam so với các trường đại học ở nước ngoài và tầm quan trọng của việc lấp đầy sự lạc hậu đó càng nhanh càng tốt đã được chấp nhận như là một nhiệm vụ quốc gia cấp bách. Chính phủ đã nhiều lần tỏ rõ ý chí và quyết tâm hành động và làm cho trình độ của các trường đại học được nâng cao lên. Như vậy đây không còn là lúc lên án các thiếu sót – dù việc có được một cái nhìn sáng suốt về bản chất của những thiếu sót đó vẫn còn là quan trọng – mà là làm thế nào để cho thuốc chữa có hiệu quả. Song không nên tự đánh lừa, tầm to lớn của nhiệm vụ thật khủng khiếp. Những bài toán liên quan đến việc dân chủ hoá nền giáo dục bậc cao, là những bài toán toàn cầu chưa nơi nào có lời giải hoàn toàn thoả đáng, đương nhiên đang hiện diện, và thường càng gay gắt hơn trong hoàn cảnh Việt Nam. Và cứ như chừng đó còn chưa đủ, những vấn đề thuần tuý Việt Nam, hậu quả của chiến tranh và tiếp liền sau chiến tranh, càng làm cho tình hình nghiêm trọng hơn.

Dân chủ hoá giáo dục bậc cao rõ ràng là một trong những tiến bộ văn hoá và xã hội đáng kể nhất của nửa thế kỷ qua và, đồng thời còn lâu mới là một thành công hoàn chỉnh. Nó đã làm nảy sinh những hy vọng quá mức và hoàn toàn phi thực tế về tiến bộ xã hội và sự lệch pha giữa mơ ước và thực tế đó vẫn là trở ngại chủ yếu nó vấp phải, cả cho đến ngày nay, ngay ở những nước phát triển nhất. Ngày trước đại học được dành cho một lớp tinh hoa – dù đó là một giai cấp được ưu tiên hay, hiếm hơn, những sinh viên có tư chất đặc biệt – giáo dục bậc cao cho phép đạt được đến những vị trí cao nhất trong bậc thang xã hội. Đương nhiên nó không còn là như thế nữa khi giáo dục bậc cao được mở rộng cho mọi người. Từ đó sinh ra những tuyệt vọng sâu sắc và lâu dài, chỉ có thể mất đi sau nhiều thập kỷ. Cũng từ đó mà có nhu cầu xem xét lại một cách sâu sắc mục đích, sứ mệnh và cấu trúc của nền giáo dục bậc cao để có thể làm cho nó thích ứng được với hiện thực xã hội mới. Chính từ đó nảy sinh vô số bài toán mới phần lớn, cho đến ngày nay, chưa có lời giải đáp hoàn toàn thoả đáng; việc phân chia các vai trò giữa các trường dạy nghề và các trường đại học truyền thống, sự cân đối giữa việc đào tạo các nhà kỹ thuật, kỹ sư và nhà nghiên cứu, thứ hạng các văn bằng và thời lượng đào tạo, quan hệ với xã hội dân sự và với thế giới công nghiệp và các xí nghiệp, mức độ tự trị và nguồn tài chính, tầm quan trọng của các hoạt động nghiên cứu, v.v. Nếu một hình mẫu duy nhất thoả mãn tất cả còn lâu mới được hình thành, thì ít nhất cũng có một điều chắc chắn: sự phức tạp của vấn đề là mênh mông và sự đa dạng của các giải pháp cho phép giải quyết chúng cũng ngang tầm mênh mông đó.

Bản tóm tắt quá ngắn gọn trên đây về những khó khăn mà công cuộc dân chủ hoá nền giáo dục bậc cao gặp phải trên phạm vi toàn cầu cho thấy rõ những khó khăn ấy càng khuếch đại đến chừng nào khi ta xem xét chúng trong điều kiện Việt Nam: trước Cách mạng tháng tám, Việt Nam có 95% dân số mù chữ và bố mẹ của tuyệt đại đa số các sinh viên ngày nay không có trình độ đại học. Không nên quên rằng con số đó chỉ còn 6% vào năm 2004: cần luôn nhớ rõ các con số ấy khi nói về giáo dục Việt Nam.

Những điều lưu ý trên nhắc nhở chúng ta nhìn nhận một cách sơ bộ đặc điểm của tình hình Việt Nam và các vấn đề riêng của nó. Giữa Cách mạng tháng tám và thống nhất đất nước ba thập niên chiến đấu đẫm máu đã trôi qua. Suốt thời kỳ này, nhiều lần một bộ phận có học nhất trong dân chúng đã rời đất nước ra đi. Trước khi nói đến đào tạo sinh viên, phải đào tạo những người thầy và, do những khó khăn của đất nước trong những năm liền sau chiến tranh, có thể nói đã mất đi hai thế hệ những người thầy cho nền đại học Việt Nam.

Thêm vào đó, vào đầu những năm 1980 dân số đã gia tăng đột ngột và những đứa trẻ sơ sinh cuối thế kỷ trước hôm nay đang đổ vào các đại học. Cho nên xây dựng đại học mới là lâu dài và khó khăn hơn nhiều xây dựng các cơ sở hạ tầng như hệ thống đường sá, đấy là một điều hiển nhiên không thể không biết đến.

Trước một tình hình như vậy sẽ là vô trách nhiệm khi cộng đồng khoa học chờ đợi Chính phủ một mình giải quyết các vấn đề gặp phải trong việc xây dựng một nền đại học Việt Nam chất lượng cao. Dù có là chính phủ giỏi nhất, sáng suốt nhất và hiệu nghiệm nhất hành tinh, nó cũng không có được chiếc đũa thần cho phép hoàn thành được những trách nhiệm nặng nề đến thế. Trong những nỗ lực ấy, Chính phủ cần có sự giúp đỡ và hỗ trợ của toàn thể cộng đồng.

Trong nước Việt Nam ngày nay, chính những người trẻ là những người có thể mang đến cho Chính phủ một sự giúp đỡ có hiệu quả và đồng bộ hơn cả. Đồng bộ là nhân tố cốt yếu. Không thể điều khiển một cỗ xe mà mỗi con ngựa lại kéo về một phía. Mỗi người phải đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng. Các nhà quan sát nước ngoài thường phê phán một biểu hiện tính thụ động ở sinh viên Việt Nam mà họ cho là do từ nền giáo dục những người này nhận được. Họ bảo rằng sinh viên đã bị cầm tay dắt đi nhiều quá, không được khuyến khích có sáng kiến và tự mình xoay xở. Nhưng chúng ta biết rằng khi được đưa vào một môi trường thuận lợi cho việc giải phóng các năng lực của họ hơn, thì họ liền làm ngay điều đó: trong huyết quản của họ cũng dồi dào sự quả cảm, quyết tâm và hăng say như tất cả thanh niên trên toàn thế giới.

Chính những người trẻ hôm nay sẽ là những người chủ của nền đại học ngày mai mà ta phải ra tay xây dựng từ bây giờ. Ngôi nhà tương lai sẽ được đặt trên vai họ, chính họ sẽ quyết định thành công của sự nghiệp. Chính họ, ngay từ hôm nay phải nhận lấy việc hợp nhất các nổ lực để mang đến cho Chính phủ sự hỗ trợ đồng bộ mà Chính phủ cần có để có thể làm tốt nhiệm vụ khó khăn của mình.

Huy động những nhà khoa học trẻ Việt Nam trong một nỗ lực như vậy rõ ràng là một nhiệm vụ quốc gia cấp bách. Những người trẻ trong từng nhóm, từng phòng thí nghiệm, từng viện nghiên cứu cần phân tích và phát biểu các yêu cầu của mình trong một tinh thần xây dựng và thực tế nhất. Những cuộc hội thảo để có được những trao đổi như vậy không thiếu và ở nơi nào còn thiếu thì việc tổ chức ra chúng cũng chẳng khó khăn gì. Các nhà khoa học trẻ Việt Nam cần sớm có ý thức về vai trò của mình trong việc xây dựng nền đại học mới, thắng sự e dè và vứt bỏ thái độ thụ động mà họ đã quen. Họ phải ý thức rằng các giải pháp cho những bài toán của họ không bỗng dưng có sẵn tự trên trời rơi xuống, rằng chính họ phải bày tỏ, phải sáng tạo ra chúng. Không có sự tham gia tích cực của họ Chính phủ sẽ bất lực khi phải một mình xây dựng chính sách giáo dục bậc cao và nghiên cứu mà quốc gia đang cần.

Một số người có thể thấy những lời nói này, từ miệng một người nước ngoài, là hỗn hào, thậm chí ngạo mạn. Tôi hy vọng mười năm tôi đã cống hiến cho việc đào tạo các sinh viên trẻ Việt Nam đã đủ để làm quên đi màu hộ chiếu của tôi. Xin họ tin ở sự khiêm nhường sâu sắc thấm đượm trong những lời phát biểu của tôi: niềm tin chắc tôi đã đặt trong những lời nói ấy, tôi biết rõ, không đảm bảo cho tôi tránh được sai lầm và tôi không hề có được sự sáng suốt đặc biệt nào cho phép tôi tin rằng mình hoàn toàn đúng.

LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Sách khoa học là best-seller, tại sao không?

    07/07/2019Đoan Trang (thực hiện)16 năm trong nghề, dịch giả Phạm Văn Thiều đã giới thiệu đến bạn đọc Việt Nam rất nhiều cuốn sách kinh điển về khoa học thuộc các lĩnh vực “cao siêu”: lượng tử, vũ trụ học, di truyền học, toán học… Ít ai ngờ được điều mà ông khẳng định: Sách khoa học là thứ sách bán chạy, và người dịch có thể sống tốt với nghề.
  • “Chúng ta đều phụ thuộc vào nhau”

    17/06/2016Kim Yến thực hiện, chân dung hội hoạ Hoàng TườngTin giáo sư Trịnh Xuân Thuận, người Việt Nam đầu tiên được trao giải thưởng cao quý Kalinga của UNESCO về Phổ biến khoa học năm 2009 đã như ngọn gió lành làm nức lòng giới khoa học và tất cả độc giả đã từng yêu quý ông qua những tác phẩm viết về vũ trụ với cái nhìn tinh tế, giàu mỹ cảm, thấm đẫm tư tưởng triết lý của đạo học Phương Đông.
  • Khoa học cần tự do

    14/06/2016Đỗ Quốc AnhLúc nhỏ học vật lý, tôi thường ngạc nhiên không hiểu tại sao lại tranh cãi nảy lửa giữa chuyện Trái đất quay quanh Mặt trời, hay Mặt trời quay quanh Trái đất làm gì. Về mặt vật lý, hai điều này tương đương nhau hoàn toàn vì chuyển động là tương đối: Vật thể A quay quanh vật thể B, thì vật thể B cũng quay quanh vật thể A. Sau này mới hiểu thêm là nếu diễn tả cả một hệ vận động, thì việc chọn đúng tâm điểm của cả hệ (ở đây là Mặt trời) sẽ có tác dụng tinh giảm lý thuyết rất nhiều, và tạo ra một lý thuyết đẹp.
  • Bốn lời khuyên cho các nhà khoa học trẻ

    03/01/2014Nếu đã đọc 'Ba phút đầu tiên - Một cách nhìn hiện đại về nguồn gốc vũ trụ', bạn sẽ nhớ ngay ra ông: Steven Weinberg, nhà vật lý lý thuyết nổi tiếng người Mỹ, tác giả cuốn sách được yêu thích này. Dưới đây là bài nói chuyện của ông trong một buổi phát bằng tại ĐH McGill, Montreal, Canada, đúc rút kinh nghiệm làm khoa học cả đời mình.
  • Nguyễn Mạnh Tường - Nhà khoa học thông thái và yêu nước

    19/01/2010GS.TS. Nguyễn Lân DũngTại sao bây giờ các khiếu kiện vẫn còn rất nhiều và không ít khiếu kiện kéo rất dài mà chưa được xử lý thích đáng. Tôi cho rằng vì chúng ta không quan tâm đến những nguyên tắc pháp lý mà bác Tường đã nêu lên tại Hội nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ ngày 30-10-1956.
  • Tạ Quang Bửu, "kiến trúc sư" của nền Toán học Việt Nam

    31/12/2009Hàm ChâuCó người cho rằng “Tạ Quang Bửu là một bộ óc Lê Quý Đôn thời nay”. Nhận định ấy cần có thêm thời gian để bình tĩnh kiểm chứng. Tuy nhiên, có thể nói ngay rằng đó không phải là điều thiếu căn cứ.
  • GS Ngô Bảo Châu: Cần nhất là "thổi lại" tinh thần hiếu học

    17/12/2009Kim Dung"Tổ chức xây dựng những nhóm nghiên cứu khoa học trẻ, năng động, là con đường lâu dài để tổ chức lại, để tạo một sức sống mới cho khoa học nước ta." - GS Ngô Bảo Châu.
  • GS Ngô Bảo Châu và Bổ đề cơ bản Langlands

    14/12/2009Hàm ChâuTháng 12/2009, tạp chí Time (Mỹ), một tạp chí có uy tín quốc tế, đã xếp công trình toán học Bổ đề cơ bản của GS Ngô Bảo Châu thứ 7 trong số 10 khám phá khoa học nổi bật trên thế giới năm 2009. Công trình ấy được công bố năm 2007, sau đó, được giới toán học thế giới kiểm tra, phản biện, rồi công nhận vào năm 2009.
  • 80% giáo sư Việt chưa xứng tầm quốc tế

    03/12/2009Nguyễn Văn TuấnỞ Việt Nam, có nhiều người mang chức danh giáo sư và phó giáo sư không có liên quan đến một trường nào, vì chức danh này là một phẩm hàm. Như những năm trước, một số lớn những người được tiến phong chức danh GS/PGS là những người làm việc hành chính, quản lí, không liên quan gì đến giảng dạy đại học (ĐH) hay làm nghiên cứu khoa học (NCKH).
  • Tài năng hay cơ hội?

    09/08/2009Nguyễn Cảnh BìnhTiếp nối thành công của hai cuốn sách thuộc dạng tư duy đột phá là Điểm bùng phát (Tipping Point) và Trong chớp mắt (Blink) được xếp trong số các cuốn sách bán chạy nhất tại Mỹ trong vài năm qua, Malcolm Gladwell vừa cho ra mắt cuốn sách mới nhất mang tên Outliers (mà chúng tôi đặt tên tiếng Việt là: Những kẻ xuất chúng). Cuốn sách là một cách nhìn, khám phá mới mẻ về thành công của những con người phi thường trên thế giới. Và theo lối tư duy của tác giả trong cuốn sách, tôi cũng muốn luận bàn về “những kẻ xuất chúng”, hay là những bước ngoặt, những sự kiện có thể tiên đoán được... ở Việt Nam.
  • Khoa học "rởm" và căn bệnh hiếu danh

    17/03/2008Trần Ngọc TrungChức danh giáo sư là một danh hiệu cao quý, do nhà nước phong tặng, thể hiện sự ghi nhận những thành quả và cống hiến to lớn đối với nhà khoa học nào đó trên từng lĩnh vực cụ thể. Người được phong chức danh giáo sư cũng thường được xã hội đề cao, coi trọng. Trong các hội thảo, trên giảng đường..., sự xuất hiện của một giáo sư luôn được đón nhận với niềm hứng khởi và lòng kính trọng...
  • Toán học vị Toán học hay Toán học vị nhân sinh?

    23/04/2006Hoàng Lê (Thực hiện)Toán lý thuyết chỉ phục vụ sự phát triển nội tại của nó. Toán ứng dụng phục vụ các ngành khác. Ở VN hiện tại, rất cần Toán ứng dụng, trong khi chưa thấy vai trò của Toán lý thuyết...
  • Người giỏi làm Toán: Rất lãng phí!

    21/02/2006Hoàng Lê (thực hiện)Kiến thức Toán khá cần thiết trong nhiều lĩnh vực, trong cuộc sống. Nhưng, những thứ thực sự cần thiết cũng chỉ ở tầm vừa vừa thôi, nói nôm na là 1+1=2, chứ không phải những cái hoành tráng, trừu tượng, cao siêu. Mà, Toán học bây giờ đi xa lắm rồi, ở tận chân trời nào rồi...
  • Thế nào là người trí thức?

    13/12/2005Paul Alexandre Baran (Phạm Trọng Luật dịch)Câu trả lời hiển nhiên nhất có lẽ như sau: đấy là người lao động với trí tuệ của mình, và kiếm sống (hoặc trong trường hợp không phải bận tâm vì sinh kế, thoả mãn lợi ích riêng của mình) nhờ bộ óc hơn là bằng bắp thịt. Tuy khá giản tiện và trực tiếp, nhìn chung, định nghĩa này vẫn không thích hợp. Đúng cho bất cứ ai không làm việc tay chân, rõ ràng là nó không ăn khớp với nghĩa thông thường của từ «trí thức».
  • Những ngộ nhận danh xưng tốn kém

    25/08/2005Nguyễn Văn TuấnTrong vòng vài năm trở lại đây, có nhiều nhà khoa học hoặc được kết nạp vào New York Academy of Science (Viện hàn lâm khoa học New York), hoặc đề cử có tên trong các từ điển danh nhân loại “Who is Who”. Cố nhiên các nhà khoa học này có ít nhiều đóng góp quan trọng cho khoa học, nhưng việc họ có tên trong các từ điển danh nhân hay được phong tặng những danh hiệu to lớn như thế có thực sự là một vinh dự, hay phản ánh tầm cỡ vĩ đại của nhà khoa học, hay là nạn nhân của những chiêu thức tiếp thị tinh vi của các công ti chuyên kinh doanh tiểu sử? Đây là một vấn đề cần xem lại cẩn thận. Trong bài viết này, tôi sẽ trình bày một số thông tin liên quan để bạn đọc lượng xét.
  • Nhà vật lý thiên văn gốc Việt nổi tiếng thế giới: Trịnh Xuân Thuận

    19/08/2005Giáo sư - Tiến sĩ người Mỹ gốc Việt - Trịnh Xuân Thuận là một nhà vật lý thiên văn nổi tiếng thế giới. Cả cuộc đời ông dành cho thiên văn học. Ông không chỉ nghiên cứu vũ trụ với tư cách một nhà thiên văn mà còn nghiên cứu nó ở góc độ triết học. Trịnh Xuân Thuận còn là một nhà văn nổi tiếng viết về vũ trụ. Những tác phẩm của ông chủ yếu nghiên cứu về thiên văn nhưng đẫm chất văn chương và triết học như: Giai điệu bí ẩn (1988); Số phận của vũ trụ, Big Bang và sau đó (1992); Hỗn độn và hài hòa (1998), Cái vô hạn trong lòng bàn tay (2000); Nguồn gốc và nỗi buồn (2003)... Ông hiện là giáo sư ĐH Virginia (Mỹ)...
  • Về cuốn sách Lượng tử và Hoa sen

    18/08/2005Tác phẩm viết chung với Matthieu Ricard, mà báo chí Pháp gọi đây là cuộc đối thoại giữa một nhà khoa học trở thành Phật tử (tức tiến sĩ sinh học Matthieu Ricard) và một phật tử trở thành nhà khoa học (Trịnh Xuân Thuận). Tác phẩm này xuất bản ở Pháp (NXB Nil-Fayard 2000) và ngay lập tức nó được dịch ra 12 thứ tiếng. Bản dịch ở Hoa Kỳ có tên là Lượng tử và hoa sen. Nếu bạn cầm cuốn này trên tay, bạn không thể bỏ xuống được, bởi đó là cuộc đối thoại rất lý thú xung quanh các vấn đề của vũ trụ, sự sống, ý thức hệ... xen lẫn với các triết thuyết nhà Phật...
  • Chương 3. Phong cách khoa học trong học tập

    14/07/2005
  • Chương I. Tinh thần khoa học

    14/07/2005
  • Cái vô hạn trong lòng bàn tay

    09/07/2005Minh BùiĐề cập đến hai cuộc đời, một của nhà vật lý thiên văn sinh ra đã là Phật tử - người mong muốn đem những hiểu biết khoa học của bản thân đối chiếu với những nguồn gốc triết học của mình, và một của nhà khoa học phương Tây trở thành nhà sư - người mà những kinh nghiệm cá nhân đã kích thích ông so sánh hai con đường nhận thức hiện thực khách quan đó.
  • Lòng ganh tị của các nhà khoa học

    11/11/2003Cao Xuân HạoLòng ganh tị của một nhà khoa học Đức đối với một bạn đồng nghiệp được thể hiện bằng cách bỏ ra 5 năm học hết lý thuyết của người ấy và bỏ thêm 5 năm nữa để nâng lên thành một lý thuyết cao hơn. Lòng ganh tị của một nhà khoa học Việt Nam đối với bạn đồng nghiệp được thể hiện bằng việc tìm cách chuyển sang ngạch hành chính tổ chức để ngăn chặn việc công bố và ứng dụng lý thuyết của hắn ta.
  • xem toàn bộ