Nguyễn Văn Vĩnh với tiếng mẹ đẻ và chữ Quốc ngữ

08:43 CH @ Thứ Tư - 10 Tháng Mười, 2018

Gần 1000 năm Việt Nam chịu ách đô hộ của phong kiến Trung Quốc, giai đoạn lịch sử này được gọi là thời kỳ Bắc thuộc. Bên cạnh những ảnh hưởng tất yếu của kẻ cai trị tạo ra, lúc này người Việt Nam còn chưa có chữ viết riêng. Các kết quả nghiên cứu khoa học cho thấy, khoảng thế kỷ thứ VIII và IX, ở Trung Quốc là đời Nhà Đường, ở Việt Nam là đời Nhà Tống, bắt đầu xuất hiện chữ Nôm. Như vậy, hiểu một cách khái quát, chữ Nôm đã ra đời khoảng sau thế kỷ thứ X, khi Việt Nam thoát khỏi chế độ Bắc thuộc với chiến thắng của Ngô Quyền năm 938(1) .

Chữ Nôm là sản phẩm của tinh thần bất khuất, thể hiện ý chí độc lập, tránh sự lệ thuộc vào phong kiến Trung Quốc của người Việt, đặc biệt về văn hóa, vì (Tiếng nói và chữ viết là căn cước văn hóa của một dân tộc)(2).

Nguyên lý của chữ Nôm là mượn âm tiếng Hán mà không mượn nghĩa. Ngược lại cũng có trường hợp, chỉ mượn nghĩa chữ Hán mà không mượn âm. Chính thực tế này đã làm cho chữ Nôm khó nhớ, vì khó nhớ nên khó học do phải ghép các nét chữ liên tục, đồng thời một chữ lại có nhiều cách đọc, thậm chí phải vừa đọc vừa đoán. Điểm hạn chế này của chữ Nôm cộng với điều kiện ngặt nghèo của cuộc sống, công nghệ in ấn đơn giản, vật liệu thô sơ, tính kỹ thuật thấp và đó chính là nguồn gốc của khái niệm: Tam sao thất bản ( ba lần sao chép mất bản gốc).

Vào giữa thế kỷ XVII, ở Việt Nam xuất hiện sự có mặt của các giáo sĩ phương Tây (Âu châu) nhiều quốc tịch. Mục đích của các giáo sĩ này là truyền bá đạo Gia tô giáo, ngoài ra họ còn thực hiện các hoạt động thương mại. Vùng đất họ đặt chân đến đầu tiên ở Việt Nam là Đàng Trong (Phần phía Nam).

Trong quá trình giao tiếp với người dân bản địa, các giáo sĩ phương Tây nhận thấy sự khác biệt vô lý trong sinh hoạt ngôn ngữ, vì sao người Việt nói một cách và viết theo một cách khác? Chữ viết lúc đó của người Việt là chữ Hán hoặc chữ Nôm. Sự khác biệt này đã gây khó khăn lớn cho các giáo sĩ trong việc giao tiếp và truyền bá những lý thuyết của đạo giáo, cũng như gây cản trở trong việc hòa nhập vào cuộc sống nội tâm, nhằm thuyết phục người dân bản địa đồng tình và làm theo những giáo lý của Gia Tô Giáo. Ngoài ra khi muốn giao dịch, mua bán họ cũng rất khó khăn trong việc giao kèo theo nguyên tắc cam kết bằng văn bản. Những nguyên nhân trên đây đã đẩy các giáo sĩ phương Tây nghĩ đến việc ghi âm phát ra của người bản xứ, đặt các âm theo cơ sở các chữ cái Roman là hệ chữ mà các giáo sĩ sử dụng. (Chữ La Tinh nằm trong hệ chữ Roman)(3).

Từ đây, lần đầu tiên trong lịch sử, người Việt Nam có bộ chữ viết theo mẫu tự chữ cái La Tinh do các giáo sĩ phương Tây lập ra và người đã có công đúc kết, tổng hợp lập thành cuốn từ điển đầu tiên là Alexander De Rhodes(4). Cuốn từ điển mang tên: VIỆT-BỒ-LA (Việt Nam-Bồ Đào Nha-La Tinh) in năm 1651.

Chữ Việt dùng mẫu tự chữ cái La Tinh ra đời, phục vụ mục đích xâm nhập và truyền bá một chủ thuyết sinh tồn theo nhãn quan tôn giáo là việc mới hoàn toàn đối với người Việt Nam. Chính vì lý do này, nên việc sử dụng thứ chữ mới chỉ ảnh hưởng mạnh đối với những người dân theo Gia Tô Giáo, trong khi, người Việt đã chịu ảnh hưởng của Phật Giáo từ rất nhiều thế kỷ trước đó. Loại chữ viết mới này đã tự giới hạn ảnh hưởng của nó do chỉ được dùng trong các cộng đồng người Việt theo Thiên Chúa Giáo, cụ thể là chỉ sử dụng trong Nhà thờ, khu cư dân theo Công giáo mà thôi. Thực tế này đã trở thành sự đối lập về ý thức của đa số người dân Việt Nam chịu ảnh hưởng của Phật Giáo và tư duy Phong kiến. Đặc biệt, theo tiến trình lịch sử, sự có mặt của những người giáo sĩ phương Tây sau đó lại gắn liền với sự xuất hiện của Chủ nghĩa Thực dân và sự tìm kiếm thuộc địa của người Pháp, nên mặc nhiên nó đã trở thành sự mặc cảm trong tâm lý người Việt vì thứ chữ mới được hiểu là chữ của bọn Tây, bọn xâm lược.

Trước quy luật phát triển của xã hội, cho đến giữa thế kỷ XIX, sự có mặt của người Tây phương kèm theo những ảnh hưởng nhất định về lối sống, về khoa học, về kỹ thuật và văn hóa ở Việt Nam, gây tác động mạnh lên tư duy của một số gương mặt có trí tuệ hơn người. Những người này nhờ được tiếp cận với nền văn hóa và kiến thức xã hội của những người Tây phương đến Việt Nam, họ cũng tự nhận thấy sự bất hợp lý của việc sử dụng ngôn ngữ giữa nói và viết của người Việt. Những nhân sĩ đó xác định đây là rào cản lớn nhất trong việc tiếp cận với nền tri thức mới của những nền văn minh khác của nhân loại và họ đã manh nha một con đường mới trong phát triển xã hội, đó là việc tìm cách sử dụng và phổ biến chữ viết mới theo mẫu tự chữ cái La Tinh, gạt bỏ dần việc sử dụng chữ Hán và chữ Nôm do quá khó trong việc tiếp thu và hạn chế trong việc phổ cập với những người dân thường, nhất là những người nghèo ít có điều kiện học hành.

Thứ chữ mới với 24 chữ cái, dễ học và dễ tiếp thu hơn rất nhiều. Những nhân sĩ tiến bộ không muốn phải tồn tại trong một xã hội lạc hậu vì người dân không được học hành, không có tri thức. Họ chắc chắn với một nhận thức truyền thống: Nhân bất học, bất chi lý! (Người không có học hành, không phân biệt được phải, trái).

Trong những diễn biến quan trọng của cuộc cách mạng này, đã xuất hiện những gương mặt tiên phong như Trương Vĩnh Ký – Pétrus Ký (1837-1898) và Huỳnh Tịnh Của – Paulus Của (1834-1907). Tuy nhiên, hai tài năng xuất chúng này của người Việt lại tồn tại ở phần phía Nam của đất nước, khi mà chế độ chính trị ở Việt Nam đã bị Thực dân Pháp chia làm ba phần, theo ba chế độ chính trị khác nhau, là: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. phục vụ cho mục đích đô hộ lâu dài trên cơ sở Hiệp ước Patơnốt (Pertenôtre) 1884.

Các yếu nhân được sinh ra trong quá trình phát triển lịch sử, không thể không lệ thuộc vào môi trường chính trị của xã hội mà họ tồn tại. Trương Vĩnh Ký là người Việt Nam đầu tiên có ước vọng và thực hiện bằng nhiều cách để mong người dân sẽ sử dụng chữ viết tiếng Việt theo mẫu tự chữ cái La Tinh mà sau đó được gọi một cách tự nhiên là: Quốc Ngữ. Bản thân từ “quốc ngữ” cũng đã làm mếch lòng một bộ phận lực lượng trong bộ máy quyền lực của Triều đình Phong kiến, đặc biệt là những người chịu ảnh hưởng sâu đậm lối tư duy của phong kiến Trung Quốc. Từ “quốc ngữ” đã vô hình chung bộc lộ tính ly khai với ảnh hưởng của tư tưởng văn hóa Đại Hán, báo hiệu sự chia tay vĩnh viễn với một chủ trương thôn tính toàn diện dân tộc Việt của Phong kiến Trung Hoa đã kéo dài hàng chục thế kỷ và sẽ kéo dài cho đến khi không thể!

Có ba nguyên nhân cần được xem xét như những lý do đã cản trở sự nghiệp lớn của Trương Vĩnh Ký đã không đạt được đến kết quả cuối cùng, bao gồm:

– Trương Vĩnh Ký là người Công Giáo (Một hình ảnh đối lập với nhãn quan của xã hội khi người dân theo Phật Giáo và Khổng Giáo).

– Trong quãng đời tồn tại, ông đã từng có phẩm hàm trong hệ thống cai trị (Là sự mặc cảm dưới con mắt của những người dân lao động được gọi là tầnglớp bị cai trị).

– Chế độ chính trị nơi Trương Vĩnh Ký tồn tại là Nam Kỳ, là vùng lãnh thổ được Thực dân Pháp chấp nhận là Thuộc địa, khác nhau rất xa về thể chế xãhội so với Trung Kỳ và Bắc Kỳ là chế độ Bảo hộ.

Những đóng góp của Trương Vĩnh Ký trong việc phổ biến chữ Quốc Ngữ ở Nam Kỳ vào cuối thế kỷ XIX, đã tạo nên một nhân tố tâm lý quan trọng trong việc hình thành một cuộc cách mạng về chữ viết đối với xã hội phía Nam Việt Nam.

Tuy nhiên quy luật xã hội cho thấy, để tạo thành cuộc cách mạng, thông thường đều đi qua những bước phát triển như:

– Sự ảnh hưởng mạnh, vượt trội từ một cá nhân (hạt nhân) tác động và kéo theo nhiều người cùng tham gia.

– Khi có nhiều người cùng tham gia, được gọi là phong trào.

– Khi phong trào được đẩy lên cao, được gọi là cao trào.

– Cao trào, sinh ra lực tác động mạnh đến xã hội, làm thay đổi hiện trạng, điều này được gọi làcách mạng.

Nhìn lại thực tế, những biện pháp do Trương Vĩnh Ký áp dụng trong cuộc cách mạng này có phần thiếu tính quyết liệt, tính bền bỉ và chịu quá nhiều áp lực của các lực lượng bảo thủ trong xã hội. (Từ 1848 đến 1861, Triều Nguyễn có sáu lần ra chỉ dụ nghiêm cấm sự tồn tại của đạo Công Giáo). Trong khi cái giá phải trả cho những kẻ tiên phong bao giờ cũng vô cùng lớn, thậm chí không có giới hạn.

Sự nghiệp và con đường làm cách mạng văn hóa của Trương Vĩnh Ký đáng tiếc đã không đẩy lên được thành cao trào, vì vậy sự lan tỏa ảnh hưởng của ông trong hoàn cảnh lịch sử đó đã không đủ mạnh để tạo sự tác động đến cuộc sống tinh thần của người dân ở vùng Trung Kỳ và Bắc Kỳ, nơi chịu sự hà khắc hơn rất nhiều so với Nam Kỳ ở mọi lĩnh vực. Kết thúc sự nghiệp, ông đã ngậm ngùi lúc cuối đời: “Rằng tuy ăn ở cùng Tần, bâng khuâng nhớ Hán muôn đời xót sa”(5).

Vào cuối thế kỷ XIX, cũng như các giáo sĩ phương Tây đã đến Việt Nam trước đó hơn hai thế kỷ, Thực dân Pháp đã rất lúng túng trong việc lựa chọn một thứ ngôn ngữ thống nhất để áp dụng cho chế độ cai trị khi mà chính sách thuộc địa đã thực sự được hình thành ở Đông Dương. Họ đã nhiều lần thay đổi các quyết định hành chính khác nhau về việc dùng ngôn ngữ nào là chính thức trong giao dịch xã hội, tiếng Hán, tiếng Pháp hay chữ Quốc Ngữ? Đến lúc này, hầu hết các lực lượng xã hội đều nhận thấy sự tiện lợi của chữ Quốc Ngữ, tuy nhiên, như đã dẫn giải. sự mâu thuẫn giữa các thành phần xã hội, giữa các lực lượng cai trị vẫn rất nặng nề, vì thế chữ Quốc Ngữ vẫn chưa chiếm được vị trí cần thiết để trở thành chữ viết Quốc gia.

—————

Đầu thế kỷ XX, sự bế tắc của xã hội Việt Nam đạt đến mức đe dọa. Trong nhiều nguyên nhân tạo ra sự khủng hoảng đó, có nguyên nhân do các chính sách của Nhà cầm quyền đã không đến được với người dân lao động vì không có một loại chữ viết dùng phổ thông. 90% người dân không biết một loại chữ viết nào. Trong lưu trữ, các văn bản lưu của Nhà cầm quyền viết theo các ngôn ngữ khác nhau, bởi lẽ, ngày ấy “Họ” vẫn tranh cãi việc lựa chọn dùng thứ chữ nào.

Thời đại nào cũng vậy, việc xuất hiện những gương mặt có chí khí, có lòng dũng cảm, với lương tâm của những người yêu dân tộc, yêu quê hương đã đưa họ đi tìm những con đường can dự, đấu tranh. Họ quyết làm điều gì đó để chấm dứt những tháng ngày đen tối của một đất nước nghèo hèn. Bên cạnh nhóm người đại diện cho các lực lượng xã hội mang tinh thần uy vũ, với lòng quả cảm và sự căm thù những kẻ bóc lột, họ muốn dùng sức mạnh thể chất để thay đổi xã hội và tạo ra những cuộc đấu tranh vũ trang, hy vọng vào một cuộc cách mạng lật đổ, thì lại xuất hiện những con người muốn tìm đến sự thay đổi xã hội bằng con đường giúp người dân có nhận thức để có học vấn và trí tuệ. Họ tin rằng; tri thức tạo nên trí tuệ, trí tuệ sẽ sáng tạo ra khoa học, có khoa học kỹ thuật sẽ tạo ra của cải vật chất, vật chất đem đến sự giàu có và nó sẽ phá tan những bế tắc, bất công, hệ quả của sự bóc lột và sự hiểu biết thấp kém của tầng lớp cai trị. Họ cũng rất tin rằng: một xã hội tiến bộ làm con người sẽ sống nhân đạo hơn, trung thực và bình đẳng hơn!

Nhưng để có được điều kiện tiên quyết thực hiện cuộc cách mạng đó, người dân phải có chữ viết, là phương tiện bắt buộc, là chất kết dính giữa sự nhận biết và hành động. Đầu thế kỷ XX ở Việt Nam vẫn dùng những loại chữ viết vay mượn.

Chí sĩ Phan Châu Trinh (1872-1926), nhà yêu nước được sinh ra tại Quảng Nam, miền Trung Việt Nam. Năm 1901, ông đỗ Phó bảng (Hàm vị dưới tiến sĩ). Năm 1906, do bất bình gay gắt với thực trạng của xã hội Việt Nam, ông đã viết bản kiến nghị bằng Hán văn mang tên: “Đầu Pháp Chính phủ thư” gửi cho Toàn quyền Đông Dương Jean Baptiste Paul Beau. Nội dung kiến nghị đòi phía Pháp phải cải cách xã hội, thay đổi chính sách cai trị, hủy bỏ nền giáo dục phong kiến, chấm dứt lối dào tạo khoa cử và dạy người dân học chữ Quốc Ngữ.

Việc làm này của Phan Châu Trinh khẳng định, dân Việt Nam phải được đòi quyền làm người, quyền sống, quyền được học hành. Bản kiến nghị còn tố cáo sự bất lực và tha hóa của bộ máy vua quan triều Nguyễn cùng các chính sách cai trị hà khắc của chính quyền Thực dân.

Toàn văn bản kiến nghị của Phan Châu Trinh đã được một thanh niên Việt Nam mới 24 tuổi, có xuất thân là con một gia đình nông dân nghèo ở phủ Thường Tín tỉnh Hà Đông (Nay là ngoại thành Hà Nội) tên là Nguễn Văn Vĩnh (1882-1936), dịch ra tiếng Pháp “LETTRE DE PHAN CHU TRINH AU GOUVERNEUR GÉNÉRAL EN 1906”, ngày 15 tháng 9 năm Thành Thái thứ XVIII (1906).

Việc chuyển ngữ bản kiến nghị này, đã giúp Nguyễn Văn Vĩnh cảm nhận sâu sắc sự bất công của một xã hội không được học hành, không có quyền làm người. Nguyễn Văn Vĩnh hoàn toàn đồng ý với cách nhận thức mang tính tư tưởng của Phan Châu Trinh rằng: chúng ta nghèo và khổ vì chúng ta ngu và dốt, mà sự ngu dốt là hệ quả mặc nhiên của việc không được học hành! Từ lúc đó, Nguyễn Văn Vĩnh đã ý thức sâu sắc tính bức thiết của con chữ đối với đồng bào mình.

Nguyễn Văn Vĩnh đã may mắn có cơ hội từ khi còn là một đứa trẻ chăn bò ngoài bãi Sông Hồng, được nhận vào làm công việc kéo quạt mát cho một lớp học của người Pháp dạy các ông tú (Tốt nghiệp THPT), các cậu cử (Tốt nghiệp đại học) học làm làm phiên dịch tại trường Hậu bổ, đóng tại đình làng Yên Phụ, Hà Nội (1890). Nhờ môi trường nơi mình làm thuê để học lỏm, tuy không được là học viên chính thức, nhưng với ảnh hưởng tự nhiên, cộng với bộ óc khác người, năm 1896, sau hai lần thi, Nguyễn Văn Vĩnh đã đỗ đầu khoa thi (thủ khoa) của trường. Tuy 15 tuổi còn quá nhỏ nhưng đã được đặc cách làm phiên dịch cho Tòa sứ Lào Cai. Từ Tòa sứ Lào Cai, ông chuyển về Hải Phòng, rồi Bắc Giang, Bắc Ninh. Năm 1906 Nguyễn Văn Vĩnh là thư ký của Tòa Đốc lý Hà Nội và cũng là năm ông gặp chí sĩ Phan Châu Trinh.

Năm 1906, Nguyễn Văn Vĩnh được cử tham gia Hội chợ (Đấu xảo) các nước thuộc địa ở thành phố cảng Mác Xây (Marseille). Ông đã tận mắt chứng kiến nền văn minh Pháp, cái nôi văn hóa của nhân loại. Ông thích thú khi được chứng kiến nghề in ấn, xuất bản và làm báo. Ông bị mê hoặc khi nhận ra giá trị vô tận của báo chí trong hoạt động truyền thông. Nguyễn Văn Vĩnh lập tức đi tìm học cách làm một tờ báo. Ông muốn lấy đó là phương tiện thứ nhất để quảng bá sự tiện lợi của chữ Quốc Ngữ, khích lệ người dân theo học thứ chữ này, từ đó giành lấy vị trị độc tôn trong văn hóa Việt, làm cơ sở cho cuộc cách mạng khai dân trí, đúng theo con đường chính trị mà Phan Châu Trinh mong muốn.

Nguyễn Văn Vĩnh tự tin tuyệt đối vào những phát hiện của mình đến mức, trong một bức thư viết từ Mác Xây vào tháng 5.1906(6) gửi về cho một người bạn chí cốt là nhân sĩ Phạm Duy Tốn (1883-1924), ông đã bộc bạch: “Cuộc đi thăm lý thú nhất của tôi trong Đấu xảo là cuộc đi thăm gian báo“Petit Marseillais”. Toà báo đó có những tài liệu xác thực nhất, lý thú nhất về nghề in từ khi nghề đó bắt đầu nảy nở hay nói cho đúng từ khi nghề đó bắt đầu được nhập cảng vào Âu châu.


Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936)

Nguyễn Văn Vĩnh nhờ vốn hiểu biết về văn hóa, xã hội cũng như nền văn minh Pháp, được chứng kiến tận mắt, với thiện tâm thuần túy, ông đã cả tin, dân tộc Pháp, nước Pháp cần gánh lấy cái trách nhiệm giúp những kẻ nghèo, kém phát triển tìm đến con đường tiến bộ. Nguyễn Văn Vĩnh đã tâm đắc và cho rằng, một dân tộc đã thực hiện một cuộc cách mạng vĩ đại với tiêu chí cao quý là: Tự do – Bình đẳng – Bác ái(7), không thể nhẫn tâm chà đạp lên sự yếu kém của người An Nam!

Trở lại Việt Nam, Nguyễn Văn Vĩnh từ bỏ con đường công chức. Theo ông, là một người tự do sẽ không bị ràng buộc, bị áp lực bởi hệ thống hành chính, sẽ rộng đường để thực hiện lý tưởng của mình. Giai đoạn lịch sử này, Nguyễn Văn Vĩnh có hai mối quan hệ sống còn liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của ông, đó là:

1/ Nhận lời hợp tác với Francois HenriSchneider (1851…), một chuyên gia về xuất bản. in ấn và báo chí, người Pháp gốc Đức, đến Sài Gòn năm 1882 theo hợp đồng ký với Chính phủ Thuộc địa để xây dựng nghành in và xuất bản ở Việt Nam.

2/ Chính thức tham gia vào nhóm các nhân sĩ cách mạng do Phan Châu Trinh đứng đầu. Tổ chức xây dựng, phát động, thảo điều lệ và xin giấy phép của Nhà cầm quyền cho trường Đông Kinh Nghĩa Thục, mở tại số 10 phố Hàng Đào Hà Nội do cụ cử Lương Văn Can làm Thục trưởng năm 1907.

Hai sự kiện trên đây, nhìn bên ngoài là sự mâu thuẫn về chính trị đối với con người Nguyễn Văn Vĩnh. Danh chính, F.H.Schneider là người của chính quyền Thực dân, trong khi Phan Châu Trinh là người phản đối chính sách cai trị của Thực dân Pháp. Thực dân Pháp coi Phan Châu Trinh là kẻ phản loạn. Vậy Nguyễn Văn Vĩnh đứng ở đâu trên bàn cờ chính trị này?

Lịch sử đã ghi rõ, Ngày 22 tháng 2 năm 1869 Phó Đề đốc Marie Gustave Hector Ohierký nghị định bắt buộc dùng chữ Quốc ngữ thay thế chữ Nho trong các công văn hành chính ở Nam Kỳ sau rất nhiều tranh cãi trong nội bộ người Pháp. Nhưng phải 19 năm sau, năm 1888, chính quyền Thực dân mới áp đặt cho Nam Kỳ phải dùng chữ Quốc Ngữ trong hoạt động, giao dịch tài chính.

Tuy nhiên, những cố gắng này của Nhà cầm quyền vẫn không đạt được tính phổ thông đối với người dân ở Nam kỳ trong việc sử dụng chữ Quốc Ngữ, chưa nói đến đối với Bắc và Trung kỳ. Triều đình Nhà Nguyễn, tuy chỉ còn giữ vai trò là hình thức trong việc cai trị đất nước, nhưng vẫn là tối cao trong quan niệm của dân chúng và cơ quan này lại nằm ở Huế, khu vực Trung Kỳ. Chính do việc để các quy chế chính trị khác nhau ở ba miền Việt Nam, nên việc làm quen dùng chữ Quốc Ngữ của dân chúng ở Trung kỳ và Bắc kỳ vẫn xa lạ, và ở cả hai vùng miền này, người dân đếu chưa có khái niệm về báo chí.

Hai lực lượng hiện hữu ở Việt Nam đều có một yêu cầu chung về việc sử dụng chữ Quốc Ngữ. Một bên là các chí sĩ yêu nước muốn dùng sự tiện lợi của thứ chữ có mẫu tự La Tinh để mở mang dân chí, canh tân đất nước. Một bên là Chính quyền Thực dân (Kẻ xâm lược), sau nhiều toan tính đã nhận thấy sự phù hợp trong chính sách cai trị nếu phổ cập chữ Quốc Ngữ. Rõ ràng, các bên đều thấy rõ lợi ích của mình nếu chữ Quốc Ngữ được phổ cập, cho dù mục đích chính trị khác nhau.

Lúc này, Nguyễn Văn Vĩnh mới 24 tuổi, con một gia đình nông dân nghèo, không liên quan đến Hoàng tộc, không ruộng vườn, tài sản, không được đào tạo học hành chính thống, nhưng lại có quyết tâm can dự vào cuộc cách mạng có một không hai của lịch sử. Nguyễn Văn Vĩnh không là cái gì dưới con mắt của những kẻ tài phiệt thực dân nhìn ở góc độ chính trị, nhưng lại là kẻ tiềm ẩn một năng lực và một bộ óc phi thường khi những kẻ thực dân đã từng chứng kiến những tháng ngày lao động của ông qua các cơ quan của hệ thống cai trị. Không vô cớ F.H.Schneider, danh chính là “ông chủ”, đầy đủ vốn liếng, quyền lực, vật chất đã phải lặn lội suốt 20 năm trời ở đất Nam kỳ, đã từng hợp tác với các gương mặt trí thức tiêu biểu của mảnh đất thuộc địa, lại phải cất công đến tìm và đề nghị hợp tác với một người “nhà quê” (cách tự nhận của Nguyễn Văn Vĩnh) ở xứ Bắc kỳ xa xôi là Nguyễn Văn Vĩnh!

Lịch sử luôn có những diễn biến như “trò chơi” định mệnh. Sự gắn bó giữa F.H.Schneider và Nguyễn Văn Vĩnh như hai nửa của số phận. Một bên có trí lực và hoài bão, một bên có vật chất, quyền lực và cả hai đều muốn “lợi dụng” lẫn nhau để đi đến bến bờ thành công trong cuộc sống, cho dù thành công nếu đạt được lại phục vụ hai lý tưởng khác nhau hoàn toàn về ý nghĩa chính trị.

Đông Kinh Nghĩa Thục ra đời với sự góp mặt của hầu hết các chi sĩ nổi danh đến từ miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Tiêu chí của phong trào rất cụ thể, đó là: Khai dân chí, chấn dân khí và hậu dân sinh. Để phấn đấu cho mục đích mới mẻ này, việc dạy chữ Quốc Ngữ trở thành nhiệm vụ hàng đầu trong Đông Kinh Nghĩa Thục. Ngoài những biện pháp khác nhau để thúc đẩy công cuộc cách mạng, các chí sĩ yêu nước và cả Nhà cầm quyền, đã nhờ có sự ngộ nhận về nhau, mà quyết tâm sinh ra một đứa con tinh thần đầu tiên mang dấu ấn cực kỳ quan trọng trong đời sống văn hóa xã hội Việt Nam, đó là ngày 28.3.1907, chính thức ra đời tờ báo chữ Quốc Ngữ đầu tiên trong lịch sử văn hóa ở phía Bắc Việt Nam, tờ “ Đăng Cổ Tùng Báo”. Tờ báo chia đôi, ½ là Hán văn, ½ là Quốc Ngữ, có nội dung riêng rẽ.

Gốc của “Đăng Cổ Tùng Báo” là công báo in bằng tiếng Hán có tên là “Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo”. Tờ báo có chủ bút là Đình nguyên Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ (1861-1908) và Chủ nhiệm chính là F.H.Schneider. Nguyễn Văn Vĩnh được cử là Chủ bút của “Đăng Cổ Tùng Báo” phần chữ Quốc Ngữ.

Nguyễn Văn Vĩnh đã mãn nguyện bởi một năm trước đó, trong bức thư viết từ Mác Xây ngày 27.6.1906 cho Phạm Duy Tốn, ông đã giãi bày những tâm nguyện của mình về một cuộc duy tân văn hóa, ông đắm đuối tưởng tượng ra cái lý tưởng về sự nghiệp làm báo, làm văn hóa đến mức: “Ngồi mà nghĩ rằng tôi sẽ là người thứ nhất để làm cái công việc đó, để mà gây lấy một tương lai tốt đẹp đó, tôi sung sướng vô cùng…”(8).Nguyễn Văn Vĩnh cần một điểm xuất phát trong hành trình đưa chữ Quốc Ngữ lên ngôi vị thống lĩnh ở phần Bắc Việt Nam, nên việc được là chủ bút một tờ báo đầu tiên trong lịch sử, đối với ông không thể không gọi là mãn nguyện.

Ngay số báo đầu tiên của “Đăng Cổ Tùng Báo”, bài “Người An Nam nên viết chữ An Nam” thực sự mang tính tuyên ngôn của tờ báo. Bài viết xác định: “Nước Nam xưa nay vẫn có tiếng-nói, mà tiếng An-Nam lại hay được một điều là cả nước nói có một thứ tiếng… Nhưng vốn chỉ có tiếng nói, không có chữ viết; đến khi học chữ tầu, rồi mới lấy chữ tầu ghép ra thành một lối riêng, gọi là chữ nôm. Chữ nôm tuy viết quấy quá cũng thành ra giạng chữ, nhưng không có mẹo mực gì, ai muốn viết thế nào thì viết, thường phải cao-đoán mới đọc được thông… bây giờ có người Phương tây đến, bày ra chữ quốc-ngữ, chắp vần theo như chữ các nước Phương tây; có mẹo mực, ba là ba, bốn là bốn, không thể sai được mà học dễ biết là bao nhiêu; Sáng ý thì chỉ vài ngày, ngu đần thì trong một tháng cũng phải thông.”(9)

Nguyễn Văn Vĩnh đã say xưa và hưng phấn đến tột độ để chủ động nêu những kiến thức mà mình đã thu lượm được đưa lên mặt báo, hệ quả của những năm tháng tự học trên cơ sở nắm vững tiếng Pháp và tiếng Hán, nhằm thực hiện ráo riết tôn chỉ của Đông Kinh Nghĩa Thục là Khai dân chí. Ông được quyền bộc lộ hợp pháp, được quyền nói những điều mình ấp ủ, như ngày nay ta thấy một kẻ đứng trước đám đông đang bức bối và kẻ đó giành giật được chiếc micrô duy nhất của buổi tập trung đông người đó, và đó chính là vũ khí, Nguyễn Văn Vĩnh cần loại vũ khí này. Khi làm tờ báo đầu tiên, ông đã có kiến thức về thế nào là sự hấp dẫn của bố cục, nội dung và hình thức đối với một tờ báo, nhằm dẫn dắt người đọc, chứng minh với người đọc về một thứ chữ mà nếu ngu đần, học cũng chỉ mất một tháng…!

Hầu hết các chuyên mục, các bài viết với các nội dung khác nhau từ xã hội, giao thương, chính trị, y tế, giáo dục, văn hóa, an ninh, tin vắn quốc tế và trong nước, rao vặt quảng cáo…đều một tay con người đó chế tác. Nguyễn Văn Vĩnh muốn từ đây, chữ Quốc ngữ sẽ trở nên gần gũi với tất cả mọi người, nó giúp người dân đến chỗ nhận thấy loại chữ này hợp lý, dễ học quá, và khi đã đọc được, họ biết thêm được bao nhiêu điều, nhận thức được bao nhiêu thứ, chứ không phải ngơ ngác khi nhìn thấy chiếc bóng đèn điện lại thốt lên: sao cái đèn lại lộn ngược nhi?


Bìa sách giáo khoa Tiếng Việt 6 – Cánh Buồm

Tờ báo với thứ chữ viết dễ học đã trở thành mối đe dọa với chính kẻ quyết định cho tờ báo ra đời. Họ sợ, đến một ngày, nó sẽ giúp những kẻ bị cai trị hiểu được vì sao mình nghèo? Vì sao mình khổ? Và sẽ lộ diện những bộ mặt chuyên hà hiếp, bóc lột và sự dối trá của những kẻ cầm quyền!

Cần phải chấm dứt hoạt động của Đông Kinh Nghĩa Thục! Phải đóng cửa tờ báo đã lợi dụng sự “hợp tác” và tinh thần “khai sáng” của Nhà cầm quyền. “Đăng Cổ Tùng Báo” đã dám trở thành cơ quan ngôn luận của một phong trào cách mạng (10).

Tháng 11 năm 1907, Nhà cầm quyền đã quyết định dặp tắt Đông Kinh Nghĩa Thục, họ bắt bớ, bỏ tù, thậm chí tử hình một số các thành viên của Phong trào. “Đăng Cổ Tùng Báo” đương nhiên phải chấm dứt hoạt động. Sự nghiệp khai dân trí có quy mô lớn đầu tiên của đất nước bị phá bỏ.

Phẫn nộ và bất mãn đến cao độ, ngày 11.12.1907, Nguyễn Văn Vĩnh đã viết văn bản gửi đến ngài Hauser là Đốc lý Hà Nội phản đối gay gắt chính quyền đương thời, đồng thời khẳng định lý do đã thúc đẩy ông tham gia phong trào này: “… lần đầu tiên tôi xuất hiện ở nhà trường là ngày 15 tháng 3 âm lịch… phần 2 của lời phát biểu của tôi là dành cho chữ quốc ngữ, tôi đề nghị lấy nó làm chữ viết dân tộc và là cơ sở cho nền giáo dục bản xứ…đó là tất cả tội của tôi. Tôi nhắc lại là vì tôi đã muốn cải cách giáo dục mà không nhờ đến chính quyền…”(11)

Đau xót vì lý tưởng vừa được thực hiện đã bị Nhà cầm quyền quân phiệt, độc tài dập tắt, Nguyễn Văn Vĩnh đã lớn tiếng kết án hành vi của những kẻ chỉ đạo:

việc đóng cửa Đông kinh Nghĩa thục là một sự trả thù hèn hạ… tôi xin phép được nói là biện pháp vừa thi hành là vô chính trị.”(12)

Vậy F.H.Schneider đã làm gì để “an ủi” Nguyễn Văn Vĩnh? Về bản chất, lúc này ông ta cũng chẳng yên tâm để chia tay với “mối duyên” Trời định! Xét đến gốc rễ, Schneider đã ở Việt Nam hơn hai chục năm trời với mục đích chiến lược là tạo dựng nghành in ấn và phát hành báo chí. Nhưng cho đến thời điểm gặp được Nguyễn Văn Vĩnh, hợp đồng của ông ta với Chính phủ Thuộc địa vẫn đang dang dở…Làm sao ông ta không “tiếc nuối” quãng thời gian hơn hai chục năm trời?! Đặc biệt là, khi nghị định của Chính phủ Thuộc địa mới ra đời, muốn người dân An Nam phải dùng chữ Quốc Ngữ. Vậy mà, vừa được thử nhiệm, nó đã bị lợi dụng. Nhất là khi “Họ” vừa “tóm” được Nguyễn Văn Vĩnh, một chàng trai đang xung mãn sức lực, tâm huyết với mục đích lý tưởng đến mức dám đánh đổi tất cả, hẳn sẽ phải là một loại công cụ hữu hiệu đắt giá cho chính quyền chứ?

Còn với Nguyễn Văn Vĩnh, ông vừa mới đi được ½ bước trên con đường mình đã chọn mà đã bị khủng bố, bị bóp nghẹt, làm sao không phẫn nộ, làm sao lại bỏ dở?!

Nhà cầm quyền, Schneider và Nguyễn Văn Vĩnh đã lặng lẽ tìm mọi giải pháp để nhân nhượng, để thỏa hiệp với nhau, thực chất là để tiếp tục “lợi dụng” lẫn nhau để cùng tìm đến một giải pháp lâu dài. Cuộc sống thật khó để rạch ròi, minh bạch rằng thế nào và đâu là biên giới của sự lợi dụng?!

Sáu năm sau (1913) lại xuất hiện một cơ hội khác, nhưng lần này là cơ hội hoàn toàn mang tính chính trị, đó là việc bùng phát liên tiếp những mặt trận đấu tranh vũ trang chống Pháp ở cả ba miền. Để ngăn chặn và khống chế khuynh hướng này, chính quyền thực dân đã buộc lòng phải thực hiện giải pháp tuyên truyền, nhưng sẽ tuyên truyền bằng phương thức nào, ngôn ngữ nào?

Nguyễn Văn Vĩnh cũng thực sự bức bách vì suốt sáu năm liền, mặt trận khai dân trí và phổ cập chữ Quốc Ngữ hòng soán ngôi của chữ Hán hầu như dậm chân tại chỗ. Nguyễn Văn Vĩnh đã dốc lòng dịch các tác phẩm văn học kinh điển trong tủ sách tinh hoa của nhân loại ra tiếng Việt, nhưng sẽ được phổ biến bằng cách nào? Một mặt, ông dẫn người dân tới sự hấp dẫn bởi chữ Quốc Ngữ khi đọc các tác phẩm dịch. Mặt khác, ông chứng minh trước những tư tưởng bảo thủ và hủ Nho trong xã hội biết rằng: chữ Quốc Ngữ đủ sức chuyển tải và mô tả những tinh hoa trí tuệ của nhân loại chứ hoàn toàn không thể như quan điểm của một vị giáo sư viết ở Sài Gòn 1974 rằng: “… chữ Quốc ngữ chỉ là thứ chữ bình dân, không phải thứ chữ của văn hóa, chữ Pháp, chữ Nho mới là chữ văn hóa..”(13).

Trong sự nghiệp dịch của Nguyễn Văn Vĩnh với mục đích làm sân khấu văn hóa cho việc thể hiện, biểu dương sức mạnh của chữ Quốc Ngữ, cần phải nói đến tác phẩm “Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa” của nhà văn Trung Quốc La Quán Trung (khoảng 1330-1400) đã được chí sĩ Phan Kế Bính (1875-1921) và Nguyễn Văn Vĩnh dịch ra tiếng Việt lần đầu tiên vào năm 1909. Ở lời nói đầu của cuốn sách, Nguyễn Văn Vĩnh đã xác định ngay từ dòng chữ đầu tiên rằng:

Nước nam ta mai sau này, hay dở cũng ở như chữ quốc ngữ”.

Đây là minh chứng cho thấy nhận thức cao quý và lý tưởng của Nguyễn Văn Vĩnh đối với chữ Quốc Ngữ.

Vẫn ông chủ F.H.Schneider, người lĩnh hội yêu cầu chiến lược của chính quyền thực dân về việc mở một mặt trận thông tin văn hóa, tuyên truyền để lên án những người Việt Nam vì căm thù thực dân Pháp, đã tổ chức các cuộc binh biến gây đổ máu và rối loạn thay vì thực hiện những giải pháp thương lượng, đối thoại theo phương thức hợp tác Pháp-Nam mà Phan Châu Trinh là tác giả. Ngày 15.5.1913, họ đã quyết định cho ra mắt tờ báo xuất bản hoàn toàn bằng tiếng Việt đầu tiên tại phía Bắc Việt Nam mang tên “Đông Dương Tạp Chí”.

Không ai khác ngoài Nguyễn Văn Vĩnh được đặt vào vị trí Chủ bút. Nguyễn Văn Vĩnh thực tâm đã có thái độ đồng tình với quyết định này của Nhà cầm quyền bởi những nguyên nhân sau:

– Nguyễn Văn Vĩnh tán thành quan điểm chính trị của Phan Châu Trinh trong việc động viên một cuộc cách mạng về nhận thức của người dân trước yêu cầu thay đổi xã hội tận gốc rễ phải là học vấn, chứ không phải là bạo động. Bạo loạn sẽ gây ra những tổn thất khôn lường do sự chênh lệch lực lượng giữa đôi bên là quá lớn. Nguyễn Văn Vĩnh nuôi nhận thức: Khi con người có tri thức, người ta sẽ biết cách để quyết định vận mệnh của chính mình, một dân tộc khi có được trình độ học vấn nhất định, họ sẽ tìm được cách để đòi quyền bình đẳng với chính kẻ đô hộ mình, thay vì xung đột. Quan điểm này của Phan Châu Trinh và Nguyễn Văn Vĩnh đã từng được thể hiện trong quan hệ với Phan Bội Châu.

– Nếu để xã hội rơi vào xung đột đẫm máu vào thời điểm đó, dù có thể giành được thắng lợi, nhưng thắng lợi đó sẽ khó giúp được việc xây dựng một quốc gia phát triển bền vững. Xung đột sẽ tiêu hao sức lực, thời gian, người dân không có cơ hội học và tích lũy kiến thức, do đó sự nghèo đói lại kéo dài. Ngoài ra ông luôn lo lắng: lịch sử của chúng ta đã hy sinh quá nhiều xương máu qua các thời kỳ, cần phải tránh để lặp lại những mất mát đó. Nguyễn Văn Vĩnh “sợ” một cuộc xung đột vũ trang sẽ ngăn cản công cuộc canh tân văn hóa mà ông đang nung nấu và thực hiện.

Nguyễn Văn Vĩnh coi việc ra đời “Đông Dương Tạp Chí” là cơ hội nghìn vàng để ông tiếp tục có diễn đàn thực hiện cái lý tưởng văn hóa của mình từ trước đó là: “Ở thế–dan này, xem trong các nước, phàm nước nào đã gọi là nước văn–minh, là cũng có văn–chương riêng cả, tiếng nói thế nào, chữ viết như thế…”(14)

Ban trị sự Tòa soạn “Đông Dương Tạp Chí” quy tụ được hầu hết những gương mặt ưu tú nhất, có học vấn nhất và trí tuệ nhất của cả Trung kỳ và Bắc kỳ (15). Nhìn nhận vai trò lịch sử của “Đông Dương Tạp Chí”, đánh giá của Phạm Thế Ngũ (1921-2000) được các chuyên gia làm việc tại Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia I thuộc Chính Phủ Việt Nam nhắc lại như sau:“Đối với Schneider và những người Pháp đứng sau tờ Đông Dương tạp chí, thì mục tiêu chính trị là quan yếu nhất. Còn đối với những người Việt Nam cộng tác, đứng đầu là Nguyễn Văn Vĩnh, hẳn các ông cũng muốn lợi dụng báo để làm nơi tuyên truyền cho việc duy tân đất nước và xây dựng văn học mới…”. Đấy chính là nguyên nhân, tiền đề dẫn tới sự ra đời của Đông Dương tạp chí, tờ báo chữ Quốc Ngữ sớm nhất ở Hà Nội (16).

Các chuyên gia nghiên cứu tại Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia I, xác định “Đông Dương Tạp Chí” là tờ báo đầu tiên ở Việt Nam dạy người dân cách học, cách làm văn bằng chữ Quốc Ngữ. Với vai trò là Chủ bút, Nguyễn Văn Vĩnh đã chứng minh khả năng tiềm ẩn và sự dần hoàn thiện của thứ chữ viết theo mẫu tự La Tinh bằng việc dịch sang chữ Quốc Ngữ hàng loạt các tác phẩm văn học kinh điển, các tư tưởng triết học của các danh nhân văn hóa Thế giới. Ở tờ báo này, cũng là lần đầu tiên người Việt Nam làm quen với: Moliere (1622-1673). Chales Perrault (1628-1703). Jean-Jacques Rousseau (1712-1778). François-Marie Arouet-Voltaire (1694-1778)… Ngược lại, Nguyễn Văn Vĩnh cũng đã cực kỳ thành công khi dùng tờ báo tiếng Việt đầu tiên này để chứng minh với đồng bào mình rằng: nền văn hóa của dân tộc Việt Nam không thể không tự hào khi chúng ta có thi hào Nguyễn Du, có Truyện Kiều, mà qua cách quảng bá của Nguyễn Văn Vĩnh, dư luận đồng tình gọi Nguyễn Du là Đại Thi hào!

Mặc dù là tờ báo tiếng Việt đầu tiên ra mắt các độc giả Việt Nam, song Chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh vẫn giúp được công chúng có những khái niệm hoàn toàn mới về một loại hình thông tin trong lĩnh vực báo chí. như ở các quốc gia phát triển. Qua một số chuyên mục được giới thiệu trên tờ báo này, ta thấy rõ điều đó.

– Thời sự tổng thuật (Tóm tắt các diễn biến thời sự mới nhất).

– Quan báo lược lục (Thông báo các chính sách mới của nhà cầm quyền).

– Tự do diễn đàn.

– Sách dạy tiếng An Nam.

– Gương phong tục.

– Luân lý học.

– Việc buôn bán (Các hoạt động thương mại).

– Nhời Đàn bà (Các vấn đề dành riêng cho nữ giới)…..

Về phương diện ngôn ngữ, những nội dung của các chuyên mục này đã được trình bày với độc giả chắc chắn đủ để tiếp thu thông qua chữ Quốc Ngữ. Rõ ràng,“Đông Dương Tạp Chí” đã đóng một vai trò quan trọng bậc nhất trong tiến trình phổ biến và hiện đại hóa ngôn ngữ, cơ sở để hình thành nền văn học chữ Quốc Ngữ ở Việt Nam, tiến dần đến khả năng thay thế vai trò nghìn đời của chữ Hán và chữ Nôm.

“Đông Dương Tạp Chí” ảnh hưởng và phát triển ra sao là hệ quả của không phải chỉ do người đứng đầu, mà lệ thuộc vào bối cảnh xã hội chính trị đương thời. Nhưng, ngày 7.1.1915, con đường phát triển báo chí ở Việt Nam, chứng kiến sự ra đời của một tờ báo mới, tờ “Trung Bắc Tân Văn”, vẫn do Nguyễn Văn Vĩnh là chủ bút. Năm 1917, một trong những gương mặt quan trọng của Tòa soạn “Đông Dương Tạp Chí” là Phạm Quỳnh (1890-1945) đã tách ra và tạo dựng tờ “Nam Phong Tạp Chí”. Đến năm 1919, Nguyễn Văn Vĩnh đã chính thức phát hành tờ “Trung Bắc Tân Văn” ra hàng ngày (Nhật báo). Đây là tờ nhật báo đầu tiên trong lịch sử báo chí ở Việt Nam. Cùng năm này đã xuất hiện một tờ báo đầu tiên ở Việt Nam chuyên về giáo dục và có tên là “Học báo”, do Nguyễn Văn Vĩnh là Chủ nhiệm và Chủ bút là Trần Trọng Kim (1883-1953). Lúc này, mảnh ruộng canh tác chữ Quốc Ngữ đã được nhân rộng lên rất nhiều.

Quá trình xây dựng, phổ biến và hoàn thiện chữ Quốc Ngữ với cơ sở truyền thông là báo chí ở thập kỷ 10 trong thế kỷ XX, thứ chữ viết mới này đã thật sự đi vào cuộc sống tinh thần của người Việt, nó đã trở thành phần hồn của một dân tộc. Trước những cố gắng bền bỉ và xuất sắc của Nguyễn Văn Vĩnh cùng với các đồng sự của mình là các nhà yêu nước, không phân biệt là phái Tân học hay phái Cựu học, cuối cùng, năm 1919, vua Khải Định (1885-1925) đã ra chỉ dụ bãi bỏ hoàn toàn các trường dạy chữ Nho. Ngày 18.9.1924, Toàn quyền Đông Dương Martial Henri Merlin (1860-1935) ký quyết định đưa chữ Quốc Ngữ vào dậy từ cấp tiểu học trên toàn cõi Việt Nam.

———————–

Vậy là sau gần ba thế kỷ, tính từ khi có cuốn từ điển đầu tiên Việt-Bồ-La năm 1651, chữ Quốc ngữ đã chính thức trở thành chữ viết quốc gia của dân tộc Việt nam. Từ góc độ lịch sử, sự kiện này là thành quả kỳ vĩ của một nền văn hóa ở một quốc gia và đối với một dân tộc. Nó là sự biến thiên hiếm hoi của trí tuệ con người, bất chấp nguồn gốc, ý tưởng ban đầu khi nó hình thành. Thành quả của một cuộc cách mạng bao giờ cũng là sự đóng góp của cả một cộng đồng, nhưng vai trò của kẻ tiên phong, kẻ dấn thân một cách kiên gan và thông tuệ, thì không thể không nhớ ơn Nguyễn Văn Vĩnh.

Trong cuộc đời làm con chữ, làm báo, làm văn hóa, Nguyễn Văn Vĩnh luôn mong muốn bạn đọc của mình hãy động não lên và hãy nhận thức được thế nào là:”Tư duy lô gich châu Âu”. Trên rất nhiều số báo của tờ “Trung Bắc Tân Văn” ông luôn lặp đi lặp lại rằng: “Tôi chỉ là người thường”.”Tôi chỉ là người thường”…

Đến giai đoạn lịch sử này, nền văn học chữ Quốc Ngữ đã hình thành và như cái nôi, nó đã sinh ra tầng tầng, lớp lớp các đội ngũ hậu thế hùng hậu, làm vinh danh lịch sử văn hóa dân tộc ở thế kỷ XX như các nhân vật: Nhất Linh (1906-1963), Thế Lữ (1907-1989), Thạch Lam (1910-1942), Tú Mỡ (1900-1976), Nguyên Hồng (1918-1982), Nguyễn Công Hoan (1903-1977), Huy Cận (1919-2005)…

Năm 1922, ngài Francois HenriSchneidertừ giã đất nước Việt Nam, vừa tròn 40 năm vật lộn ở mảnh đất đã giữ ông cả cuộc đời. Có lẽ, cũng như chữ Quốc Ngữ, Ông đến Việt Nam với một mục tiêu ban đầu rất khác với cái hệ quả đạt được khi kết thúc. Nhưng dù gì, chúng ta không thể quên ơn của F.H.Schneider, dù gì đó cũng là người đem đến đất nước này que diêm của ngọn lửa xuất bản tri thức.

Ngài Schneider ra đi, lúc này Nguyễn Văn Vĩnh đã quá đủ vững vàng. Nguyễn Văn Vĩnh tiếp tục đào sâu hơn, mở rộng hơn cái thửa ruộng văn hóa mà ông miệt mài cày cấy. Năm 1922, ông thay đổi toàn bộ dây chuyền công nghệ in do Schneider đem đến Việt Nam từ hơn 30 năm trước, với mục đích để có các ấn phẩm chất lượng hơn, chuẩn mực hơn. Ông tin tưởng ở kho tàng kiến thức khoa học và văn hóa của nhân loại sẽ giúp nâng cao dân trí, nên ông đẩy mạnh việc dịch hàng loạt các ấn phẩm nổi tiếng của Thế giới ra Quốc Ngữ. Để có chỗ giới thiệu các sản phẩm đó với người dân, ông vay tiền ngân hàng năm 1926, thành lập nhà sách Âu Tây Tư Tưởng ở số 1-3 phố Hàng Gai (Nhìn ra Bờ Hồ Hoàn Kiếm). Trong một bài tâm sự, Nguyễn Văn Vĩnh mơ ước rằng: Nhà sách này sẽ là Trung tâm Bách hóa văn hóa, một nơi người dân có thể tìm thấy tất cả những gì liên quan đến văn hóa.

Nguyễn Văn Vĩnh đã quyết tâm nghĩ và thực hiện việc cải tiến chữ Quốc Ngữ khi bị kỹ thuật điện tín quốc tế chối bỏ do tiếng Việt có quá nhiều dấu và âm sắc, và ông đã thành công(17). Lần đầu tiên, tiếng Việt được chuyển qua điện tín theo nguyên tắc a a = â, a w = ă, u w = ư…. Và đó là năm 1927.

Thành công trong việc cải tiến chữ Quốc Ngữ dùng trong nghành bưu điện đã “xui khiến” Nguyễn Văn Vĩnh còn quyết tâm hơn trong việc xây dựng chữ Quốc Ngữ Cải Tiến (Le Quốc-Ngữ Modifié). Nguyên lý của máy in linotype, phát minh khoa học của thế giới ra đời năm 1886, thay thế hệ monotype, không thể chứa hết 127 mẫu chữ cái khác nhau của chữ Quốc Ngữ, đồng thời, máy đánh chữ nhập từ châu Âu về Việt Nam không có dấu…Những thực tế này đã khich lệ Nguyễn Văn Vĩnh nghĩ ra một mẫu chữ cải tiến nhằm thuận lợi hơn trong việc hòa nhập với công nghệ in ấn của Thế giới. Một thí dụ: Năm dấu: sắc, huyền, hỏi, ngã nặng được Nguyễn Văn Vĩnh thay thế bằng: q, f, j, z, w và được đặt phía sau của từ.

Từ năm 1927 đến năm 1930, trên báo “Trung Bắc Tân Văn” mỗi số báo đều có một bài báo được Nguyễn Văn Vĩnh viết theo nguyên tắc của chữ Quốc Ngữ cải tiến. Mục đích là để giúp người đọc làm quen dần với mẫu chữ mới này. Ngoài ra, theo Nguyễn Văn Vĩnh, việc cải tiến chữ Quốc Ngữ mới giúp không thể nhầm lẫn khi viết cẩu thả do đánh nhầm dấu, vì các dấu đã được quy định thành các chữ cái, trong khi các phát âm vẫn như cũ. Hơn nữa, việc sử dụng chữ Quốc Ngữ cải tiến sẽ tận dụng được tất cả các hộp xếp chữ của máy in hiện đang sử dụng ở Việt Nam. Người thợ xếp chữ sẽ thuận lợi hơn, chi phí sẽ ít hơn. Phương pháp này tạo điều kiện để công nghiệp in ấn ở Việt Nam áp dụng được các phát minh, sáng chế của Thế giới. Đặc biệt, các loại máy đánh chữ nhập vào Việt Nam đều sử dụng được mà không bị bỏ phí.…(18).

Đến thời điếm này, Nguyễn Văn Vĩnh đã đi được một chặng đường dài trong sự nghiệp xây dựng nền tảng tiếp thu học vấn và tri thức cho đồng bào mình. Kho kiến thức tiến bộ về tất cả các lĩnh vực của nhân loại đã đến được với người Việt Nam thông qua vai trò chữ Quốc Ngữ. Thật trớ trêu, những thành công này của Nguyễn Văn Vĩnh lại đi ngược với chiến lược cai trị của chính quyền Thực dân.

Nhà cầm quyền thực dân, một mặt muốn áp dụng việc sử dụng chữ Quốc Ngữ làm công cụ chính trị để cai trị, họ không muốn Nguyễn Văn Vĩnh biến nó thành nhân tố khai sáng cho trí tuệ người Việt. Mặt khác, tất cả những “ưu ái” của Nhà cầm quyền dành cho Nguyễn Văn Vĩnh, mục đích để Nguyễn Văn Vĩnh phải thực sự là công cụ và là đồng minh đích thực của họ. Vậy nhưng, Nguyễn Văn Vĩnh càng trưởng thành càng trượt xa mục tiêu chính trị của Chính phủ Thuộc địa.

Năm 1930, Chính quyền Thực dân không chịu đựng nổi vai trò và ảnh hưởng của Nguyễn Văn Vĩnh, họ quyết định tịch thu giấy phép xuất bản báo chí và sách bằng chữ Quốc Ngữ. Tịch thu nhà in Trung Bắc Tân văn. Họ đã thực hiện việc xóa bỏ những thành công đang dần thành hiện thực của Nguyễn Văn Vĩnh trong dự án Chữ Quốc Ngữ Đổi Mới, bằng cách cho Nhà in Viễn Đông (IDEO) xuất bản vội vàng một cuốn sách in bằng chữ Quốc Ngữ cải tiến theo kỹ thuật in Linotype với khổ sách 10cm x 14cm, dày 146 trang có tựa đề “Hướng dẫn đối thoại Pháp-Nam”. Lấy tên của cha cố đạo R. P. Barbier là tác giả. Chính quyền Thực dân đã vội vã đến mức lập tức bắt Nhà in Viễn Đông phải đăng ký bản quyền sáng chế phát minh và yêu cầu Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp chứng nhận.

Phản ứng trước thực tế này, ngày 29.5.1932, trên số báo “L’Annam Nouveau-Nước Nam mới” số 139, Nguyễn Văn Vĩnh đã viết bài “Cuốn sách đầu tiên được in ra bằng Chữ Quốc Ngữ đổi mới- Le premier livre imprimé en Quoc-ngu ré formé”, phân tích chi tiết những bất hợp lý trong nội dung của cuốn sách và thẳng thắn lên án cách hành xử mang tích thủ đoạn của Chính quyền. Thực chất, đây là sự cướp công với mục đích dập vùi, đẩy Nguyễn Văn Vĩnh đến chỗ phải đầu hàng.

Đầu năm 1931, đứng trước hàng loạt những khó khăn và khủng hoảng do Nhà cầm quyền Thực dân dồn ép, Nguyễn Văn Vĩnh bị chặt đứt tất cả các cánh tay trong sự nghiệp. Nhưng Nguyễn Văn Vĩnh đã không lùi bước.

Thực dân Pháp cấm thành lập các đảng phái chính trị. Cấm Nguyễn Văn Vĩnh viết và xuất bản các ấn phẩm bằng chữ Quốc Ngữ, họ ra ba điều kiện rất rõ ràng nếu không muốn bị phá sản với Nguyễn Văn Vĩnh gồm:

– Chấm dứt việc viết.

– Chấm dứt việc phê phán chính quyền và triều đình Huế.

– Chấp nhận làm thượng thư cho triều đình Huế.

Nguyễn Văn Vĩnh chống lại những đòi hỏi này của Chính phủ Thuộc địa. Bất chấp những khó khăn toàn diện trong cuộc sống, ông đứng ra tổ chức thành lập tờ báo “L’Annam Nouveau-Nước Nam mới” viết bằng tiếng Pháp, với các mục đích:

– Tiếng Pháp không phải xin phép.

– Tiếp tục vận động xã hội chống chế độ Bảo hộ và Quân chủ Lập hiến.

– Xây dựng và kêu gọi xã hội và chính quyền đi theo học thuyết Trực trị.

– Tiếp tục phổ biến những kiến thức xã hội tiến bộ về khoa học, văn hóa, chính trị, ngoại giao, thương mại, công và nông nghiệp….

Năm 1935, Thực dân Pháp đã hết kiên nhẫn. Một lần nữa, để hạ gục Nguyễn Văn Vĩnh, họ đã sống sượng đưa ra những sự áp đặt để ông lựa chọn như sau:

– Chấp nhận làm quan cho triều đình Huế.

– Không chấp nhận điều kiện một, sẽ bị tịch biên toàn bộ tài sản để phát mại và buộc phải trả nợ những khoản vay cho dù chưa đến hạn thanh toán và bị kết án phá sản. Hoặc phải sang Lào tìm vàng để trả nợ Chính phủ.

– Phải đi tù.

Là một người liêm sỷ, chính trực, Nguyễn Văn Vĩnh đã bác bỏ tất cả các điều kiện nghe như là sự ưu ái của Nhà cầm quyền, ông từ chối cả việc Nhà nước Pháp hai lần muốn tặng ông huân chương Bắc đẩu Bội tinh. Ông chấp nhận đi sang Lào theo sự sắp xếp của Chính phủ Thuộc địa như một giải pháp để trả món nợ khổng lồ ông đã vay trước đó liên quan đến hoạt động xuất bản và phát triển văn hóa.

Tháng Ba năm 1936, Nguyễn Văn Vĩnh từ biệt gia đình và người thân đến một nơi hoàn toàn heo hút, xa lạ. Không một ai nghĩ rằng, sự nghiệp đồ sộ của ông sẽ chấm dứt trên một con thuyền độc mộc lênh đênh trên dòng sông Sê Băng Hiêng (Nhánh của sông Sê Pôn, miền Nam nước Lào), trừ Nhà cầm quyền Thực dân. Người ta đã tìm thấy ông toàn thân tím đen, một tay vẫn giữ chặt cây bút và tay kia là một quyển sổ. Ông vẫn đang viết tiếp loạt bài phóng sự có nhan đề “Một tháng với những người tìm vàng”, và đó là ngày 1.5.1936. Nhà cầm quyền loan tin: Ngày 2.5.1936, Nguyễn Văn Vĩnh đã chết vì sốt rét và kiết lỵ!!!

Những thành viên của “Hội Tam điểm”(19)đã đưa xác ông về Hà Nội và tổ chức đám tang với 2 đêm và 1 ngày. Hàng vạn người đã đến vĩnh biệt ông với hàng chục các bài điếu văn tiễn biệt, trong đó có bài điếu viết bằng cả hai thứ chữ là Hán và Quốc Ngữ của Nhà yêu nước Phan Bội Châu (1867-1940). Người ta gọi Nguyễn Văn Vĩnh là “Ông tổ của nghề báo” và là “Người công dân vĩ đại” (20).

Để nhìn lại toàn bộ sự nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh, chí sĩ Nguyễn Văn Tố (1889-1947) đã viết và đăng trên tạp chí Tin tức-Hội Tương tác Giáo dục Đông Kinh số 16 ra tháng Sáu năm 1936 tại Hà Nội, xin trích đoạn:

“Mặc dù mất sớm, song Nguyễn Văn Vĩnh đã hoàn thành được một đại sự nghiệp, nó sẽ còn lưu lại mãi sau khi ông mất đi, như một bằng chứng bất hủ về sự tồn tại của ông. Tên tuổi ông sẽ được ghi khắc mãi mãi trong lịch sử văn học nước Nam, như một trong những bậc thầy đã làm được nhiều nhất cho sự phát triển của nền văn học đó. Tên ông sẽ không chỉ được viện dẫn bởi những người Tây học nhất quyết sẽ đi theo con đường do ông khai phá, mà tên tuổi đó cũng chẳng thể nào vô tình hay cố ý bị bỏ quên bởi bất kỳ ai, khi định đến với toàn bộ trào lưu tư tưởng ở xứ Đông Dương trong vòng ba chục năm qua. Bởi vì, riêng việc ông toàn tâm toàn ý phát triển chữ quốc ngữ(14), chỉ riêng việc đó thôi, đã bộc lộ toàn bộ cái giá trị của một con người đã đóng góp nhiều hơn bất kỳ ai, để khiến cho cái thứ chữ đó trở thành một trong những thành tựu bền lâu của trí tuệ con người.”(21).

Hà Nội, 12.5. 2015

Chú thích:

  1. Sách Giáo trình Hán Nôm, tập 2 (tập chữ Nôm), Bộ môn Hán Nôm trường Đại học Tổng hợp Hà Nội biên soạn, Nhà xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, 1990. Trang 8-9.
  1. Quan điểm của tác giả Thăng Long trong bài “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt hay triệt tiêu”báo Người Đại Biểu Nhân Dân ra ngày 30.7.2013.
  2. Hệ chữ cái Roman được sử dụng ở các quốc gia: AragonAsturiasBồ Đào NhaBồ Đào Nha cổBổ trợ Quốc tếCatalanGaliciaLatinhNapoliOcPapiamentoPhápRomanaTây Ban NhaÝ. (Theo BKTT-Wikipedia).
  3. Alexandre de Rhodes(1591-1660). Trong sử Việt Nam được gọi là Giáo sĩ Đắc Lộ. Ông sinh ở thành phố Avignon-Pháp. Gia đình là dân Do Thái. Ông là nhà truyền giáo Dòng Tên và là nhà ngôn ngữ học. Cha Đắc Lộ đến Hội An-Việt Nam lần đầu tiên là năm 1625. Ông bị Chúa Nguyễn trục xuất khỏi Việt Nam năm 1645.
  4. Nguồn: bài “Trương Vĩnh Ký một trí thức buồn” của Hồng Lê Thọ viết nhân ngày giỗ lần thứ 110 (1.9.2008) trên trang
  5. Bức thư này được nhà văn Vũ Bằng cho đăng lại trên tờ báo Trung Bắc Chủ Nhật số 206 ra ngày 11.6.1944 ra ở Hà Nội.
  6. Khẩu hiệu của cuộc Cách mạng Tư sản Pháp, lật đổ vĩnh viễn chế độ Phong kiến, kéo dài từ 1789 đến 1799. Cuộc cách mạng này còn được gọi là Công xã Paris lần thứ nhất.
  7. Bức thư này được nhà văn Vũ Bằng cho đăng lại trên tờ báo Trung Bắc Chủ Nhật số 205 ra ngày 4.6.1944 ra tại Hà Nội.
  8. Trích nguyên văn trong số báo đầu tiên của “Đăng Cổ Tùng Báo” (tannamtu.com).
  9. Thời gian tồn tại của tờ “Đăng Cổ Tùng Báo” gần bằng thời gian hoạt động của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (Khoảng 9 tháng).
  10. Đốc lý là chức danh chỉ dùng cho các đơn vị hành chính lớn và quan trọng. Nhỏ hơn, được gọi là Tòa xứ. Ngài Hauser là Đốc lý Hà Nội từ tháng Hai năm 1907 đến tháng 4.1908. Bức thư Nguyễn Văn Vĩnh gửi cho Hauser hiện đang được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại Quốc gia Pháp CAOM ở thành phố Aix en provence và được chủ nhiệm trang web tannamtu.com chụp lại bằng máy ảnh. Người dịch: Nguyễn Đình Cung.
  11. - Nt -
  12. Trích trong cuốn “Chữ văn Quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc” của giáo sư Nguyễn Văn Trung. Nhà Xuất bản Nam Sơn xuất bản tại Sài Gòn năm 1974.
  13. Phát biểu của Nguyễn Văn Vĩnh ngày 4.8.1907 tại Hội Quán Trí tri (47 Hàng Quạt, Hà Nội) nhân ngày thành lập Hội dịch sách. Người ghi lại: Nguyễn Văn Tố. Tạp chí Tin tức-Hội Tương tác Giáo dục Đông Kinh số 16 ra tháng Sáu năm 1936 tại Hà Nội.
  14. Ban Trị sự của tòa báo có hai nhóm các nhân sĩ nổi tiếng. Phái Tân học, chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây gồm: Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh…Phái Cựu học, chịu ảnh hưởng của Nho học gồm: Phan Kế Bĩnh, Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Đỗ Mục, Phạm Huy Lục, Nguyễn Khắc Hiếu…
  15. “Đông Dương Tạp Chí – Tờ báo chữ Quốc Ngữ sớm nhất ở Hà Nội” Tác giả Hoàng Cương và Thu Hường. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I.
  16. Tạp chí Tem-Bưu điện Việt Nam số tháng 11.2011. Tác giả Đoàn Quang Vinh.
  17. “Cuộc cách mạng đổi mới” đăng trên các số từ 115 đến 118 tháng 3.1932 của báo L’Annam Nouveau-Nước Nam mới.
  18. “Hội Tam Điểm” (La Franc Maçonnerie) của những người thợ lao động ra đời từ thế kỷ XVI tại nước Anh. Là một hội đoàn hoạt động kín và chỉ kết nạp những người tốt trên khắp Thế giới. Một trong những tinh thần của Hội là: tự do tư tưởng, chống lại sự độc đoán và chuyên quyền của vua chúa và giáo hội. Nhiều hội viên của Hội là những nhà chính trị, là danh nhân nổi tiếng Thế giới như: Tổng thống Mỹ Washington, Abraham Lincoln, thủ tướng Anh Winston Churchill, nhạc sĩ Mozart, các triết gia như Montesquieu, Voltaire…
  19. Trích các điếu văn đọc tại tang lễ Nguyễn Văn Vĩnh ngày 8.5.1936 tại Hà Nội. (tannamtu.com).
  20. Trích trong bài “Sự nghiệp Nguyễn Văn Vĩnh” của Nguyễn Văn Tố, đăng trên Tạp chí Tin tức-Hội Tương tác Giáo dục Đông Kinh số 16 ra tháng Sáu năm 1936 tại Hà Nội.
Nguồn:
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh với việc phát triển báo chí tiếng Việt và truyền bá chữ quốc ngữ

    27/04/2016Nguyễn Thị Lệ HàCho đến nay, phần lớn các tác giả khi nghiên cứu về Nguyễn Văn Vĩnh đều cho rằng ông là người thông minh, có tài và đặc biệt xuất sắc trong nghề làm báo và xuất bản. Có thể nói, Nguyễn Văn Vĩnh là người làm chủ nhiệm, chủ bút nhiều nhất trong lịch sử báo chí Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX...
  • Bồ Đào Nha và công trình sáng chế chữ Quốc ngữ

    20/04/2016Roland JacquesLàm sao quên được công trình vĩ đại mà các vị tiên phong của công cuộc truyền giáo tại Việt Namđã thực hiện? Những điều mà các vị truyền giáo dòng Tên đến từ Bồ Đào Nha, do Bồ Đào Nha gửi đi, đã thực hiện trong phạm vị ngữ học kỳ cùng là những công trình có tính cách quyết định cho tương lai văn hóa Việt Nam...
  • Nguyễn Văn Vĩnh - Một trong những người tiên phong hoàn thiện chữ Quốc ngữ

    18/03/2016Nguyễn Lân BìnhTác giả Nguyễn Lân Bình là cháu nội của ông Nguyễn Văn Vĩnh. Với những tư liệu mà gia tộc đang giữ về người ông đã khuất, ông Bình đã bày tỏ quan điểm của mình… Với tinh thần khách quan, gạn lọc, công bằng. Hồn Việt xin đăng tải ý kiến của ông…
  • Chữ Quốc ngữ

    28/10/2009Nguyễn Văn VĩnhTrước hết chữ quốc-ngữ không biết bởi ai mà thành ra, nhưng quyết được rằng những người dùng đầu-tiên, không phải là người Đại-pháp. Ý hẳn là bởi mấy ông cố-đạo Bồ-đào-nha đến đất Nam-kỳ từ đầu XVII thế-kỷ, cho nên nhiều vần không giống vần Đại-pháp.
  • Nguyễn Văn Vĩnh- Một trong những người tiên phong hoàn thiện chữ Quốc ngữ

    06/08/2009Nguyễn Lân BìnhCông bằng với Lịch sử là việc cần làm, điều này ai cũng hiểu. Tôi xin mạnh dạn nêu những hiểu biết của mình thông qua những ký ức bằng chữ của nhà Văn, nhà Báo, nhà Tình báo Cách mạng lão thành Vũ Bằng; người được Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật 2006, tác giả cuốn sách “Bốn mươi năm nói láo” do Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin ấn hành năm 2001.
  • Sự ra đời của chữ quốc ngữ - Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh

    24/07/2009Nguyễn Đình ĐăngTôi đã vẽ bức tranh “Sự ra đời của chữ quốc ngữ- Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh” với lòng ngưỡng mộ sâu sắc đối với hai vĩ nhân nói trên của dân tộc Việt Nam - Alexandre de Rhodes và Nguyễn Văn Vĩnh.
  • xem toàn bộ