Thành đạt là kết quả tất yếu của một quá trình gieo trồng cẩn thận

09:35 SA @ Chủ Nhật - 12 Tháng Mười, 2014

Hỏi: Chúng tôi được biết từ năm 9 tuổi ông đã đi bán nước chè dạo ở ga Hàng Cỏ, đến bây giờ ông đã có một quãng đường dài và làm được rất nhiều việc. Ông có thể kể lại quá trình học tập và phấn đấu của ông?

Trả lời: Tôi tốt nghiệp phổ thông năm 1963, đi bộ đội năm 1964. Năm 1967 tôi về để đi học đại học. Trước khi học đại học thì tôi học lại phổ thông 1 năm. Tôi tốt nghiệp đại học xây dựng, khoa cầu đường năm 1973 và về làm việc tại Viện khoa học và công nghệ thuộc Bộ Giao thông Vận tải. Tôi từng là quyền chủ nhiệm bộ môn nền móng và công trình ngầm. Sau đó tôi chuyển về Hội xây dựng Việt Nam thuộc Ủy ban Xây dựng cơ bản nhà nước năm 1984. Cuối năm 1985, đầu năm 1986 tôi chuyển về Bộ Khoa học và Công nghệ. Cuối năm 1987 tôi lập ra công ty này, công ty tư vấn về luật pháp đầu tiên ở Việt Nam. Những người cố vấn cho tôi lúc đó có giáo sư Lưu Văn Đạt, bây giờ là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật sư Ngô Bá Thành, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh, quyền Thủ tướng Việt Nam cộng hoà, ông Hoàng Trọng Đại, Thứ trưởng Bộ Ngoại thương ngày xưa. Tôi hoạt động trong lĩnh vực này từ rất sớm, có lẽ từ khi đất nước đang còn ngủ mê mệt trong nền kinh tế bao cấp tôi đã làm chuyện xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn về nền kinh tế thị trường.

Còn chuyện bán nước chè thì phải nói rằng gia đình tôi là gia đình khá giàu có. Ông nội và ông ngoại tôi đều giàu có và tôi là một cậu ấm thật sự. Lúc nhỏ tôi luôn có 3 người phục vụ, một gia sư, một người chuyên tổ chức cho tôi đi chơi và một vú em. Năm 1953 thì cải cách ruộng đất, gia đình tôi là địa chủ nên rơi từ trên cao xuống. Cha tôi là đảng viên cộng sản từ cuối những năm 1940. Cha tôi đỗ tú tài từ thời Tây, là một người có học trong thời kỳ đó nhưng không nên cơm cháo gì vì không phải thành phần cơ bản. Trong thời kỳ chiến tranh cha tôi ốm đau nên phải ra Hà Nội chữa bệnh. Thế là mẹ tôi dắt chúng tôi ra Hà Nội. Ở Nghệ An ra Hà Nội những năm 1954-1955 có thể coi như một cuộc vượt biên nho nhỏ vì muốn đi là phải có giấy thông hành, mà giấy thông hành thì không phải dễ mà xin được. Đương nhiên trong hoàn cảnh ấy ra đến Hà Nội thì chúng tôi phải đi kiếm cái mà ăn, từ trẻ con đến người lớn. Cho nên chuyện bán nước chè là một tai hoạ.


Ô Quan Chưởng xưa và nay...

Hỏi: Ông có thể kể về chuyến xe từ Nghệ An ra Hà Nội. Lúc đó ông hình dung Hà Nội như thế nào?

Trả lời: Từ Nghệ An ra Hà Nội chúng tôi đi bằng loại ôtô có gắn bình than ở đằng sau. Tôi còn nhớ rằng tôi đã dại dột sờ tay vào cái bình than và bị bỏng. Lúc đó chúng tôi không nghĩ những cái đằng trước sẽ như thế nào mà chỉ nghĩ cái đằng sau nó có níu mình lại không. Bởi khi chạy ra Hà Nội thì mẹ tôi chỉ vừa mới xử lý được cái khó khăn đằng sau để đi, còn để hiểu cái khó khăn đằng trước thì bà không đủ kinh nghiệm. Tôi nghĩ có lẽ những thuyền nhân vượt biên khi ra đi không nghĩ nước Mỹ sẽ như thế nào mà họ chỉ nghĩ làm thế nào để đi ra khỏi phao số không. Sự khủng khiếp vào giai đoạn 1953-1954 không kém gì năm 1975, bây giờ kể lại thì giống như tố khổ, tôi không thích, nhưng các anh chị hỏi cảm tưởng của tôi lúc đó thì tôi không biết gì và không có nhu cầu gì để tìm hiểu những cái phía trước. Làm thế nào để đi khỏi Nghệ An và làm gì để sống được ở Hà Nội là tất cả những gì chúng tôi quan tâm. Nhưng cũng phải nói gia đình chúng tôi là gia đình cách mạng, cha tôi là đảng viên cộng sản và nhiều bà con họ hàng cũng là đảng viên cộng sản, vì thế cho nên sự khủng khiếp mà chúng tôi phải chịu đựng vẫn chưa bằng những sự khủng khiếp khác. Chúng tôi bị cảm ứng bởi những sự khủng khiếp xung quanh hơn là chính mình phải chịu đựng.

Câu chuyện ấy qua lâu rồi, nhưng cái đáng kể là đi từ xứ nhà quê ra với cái giọng nghe rất chói tai của người Nghệ, sống trong cái Hà Nội 40-50 năm trước, một Hà Nội của những gì khá lịch lãm, khá tinh tế, tôi có nỗi ngượng của một kẻ khá thô lỗ trước sự tinh tế của nó. Khi đi học tôi luôn thấy mình nhỏ bé và thô lỗ bên cạnh bạn hữu. Cho đến nay 66 tuổi rồi đôi lúc nghĩ đến sự thô lỗ của mình tôi vẫn còn ngượng. Bây giờ thì cũng đỡ ngượng hơn bởi vì Hà Nội cũng thô lỗ dần lên. Có lẽ nhiều người không nhận ra rằng người ta chỉ có thể bị khuất phục bởi tiêu chuẩn chứ đâu phải khuất phục bởi một số người. Trong những người Nghệ Tĩnh có mặt ở Hà Nội có lẽ chưa ai tự kiểm điểm trước sự tinh tế của Hà Nội. Có lẽ tôi là một trong số ít mô tả lại cảm giác ngượng ngùng của mình, về sự thô lỗ mà mình có trong một môi trường văn hoá nề nếp.
Ở phố tôi ở có một gia đình con chót dại ăn cắp là cả gia đình phải chuyển đi chỗ khác. Sự phân hóa xã hội đạt đến mức rất khúc triết, thằng là thằng, ông là ông, cụ là cụ, rất rõ ràng. Với tư cách là người Nghệ tôi cám ơn Hà Nội đã mang lại cho tôi những chất lượng văn hoá. May là cha tôi ra Hà Nội du học từ bé, do đó ông là người hướng dẫn chúng tôi chấp nhận tiêu chuẩn văn hoá Hà Nội. Trong cấu trúc ngôn ngữ của tôi, tất cả các thổ ngữ của người Nghệ tôi sửa được hết, không chỉ sửa giọng. Cách đây mấy năm giáo sư Lê Xuân Khoa về Hà Nội, nghe tiếng tôi nên anh ấy đến chơi. Trong khi tiếp anh ấy, tôi có nói rằng: "Rất cám ơn anh đến thăm tôi, ấn tượng lớn nhất của tôi là xa Hà Nội hơn nửa thế kỷ nhưng giọng của anh vẫn là giọng Hà Nội chuẩn." Ông ấy bảo: "Tôi cũng cám ơn anh vì nhận xét ấy. Như vậy tức là anh đã phát triển tới mức nhận ra cái tính chuẩn của giọng Hà Nội."


Cầu Thê Húc xưa và nay...

Hỏi: Ông có thể nói thêm về con đường học tập của ông?

Trả lời: Tôi học kỹ sư xây dựng, song song với việc học chuẩn như vậy, để làm phong phú thêm kiến thức, tôi học thêm văn (lúc đó vợ tôi học khoa văn ở đại học sư phạm, tôi đưa vợ tôi đi học và cũng học văn, nhưng ở trường đại học tổng hợp vào buổi tối). Tôi không có văn bằng nhưng có trình độ của cử nhân ngữ văn. Tôi học rất công phu, tôi nghe bài giảng của những người như giáo sư Đinh Gia Khánh, giáo sư Lê Đình Kị, giáo sư Phan Cự Đệ... Khi học đại học xây dựng, tôi còn học thêm ở khoa toán tính (toán ứng dụng) vào buổi tối để có trình độ hiểu được những bài giảng cơ học. Năm 1990 tôi bắt đầu học Luật và tốt nghiệp khoa Luật của trường Đại học Tổng hợp năm 1994, tôi tham gia đoàn luật sư năm 1995 đến giờ. Cùng học lớp luật với tôi có hai nhân vật khá nổi tiếng, anh Nguyễn Trọng Điều, hiệu trưởng Học viện Hành chính quốc gia và anh Chính bây giờ là vụ trưởng vụ biên giới Bộ ngoại giao. Nếu nói về tự học thì tôi còn nghiên cứu về kinh tế học phương Tây từ năm 1976. Tôi học một cách rất căn bản về kinh tế học vĩ mô, kinh tế học vi mô, kinh tế học phát triển.

Hỏi: Ông học rất nhiều cả khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, vậy kiến thức làm ông trưởng thành, thành công là kiến thức của khoa học nào?

Trả lời: Tôi nghĩ rằng văn học là công cụ cơ bản để nhào nặn tất cả những kiến thức rắc rối của tôi trở thành một công cụ có chất lượng xã hội học rất sắc. Tức là văn học giúp cho con người nối những kiến thức rời rạc trở thành một thực thể được gọi là con người. Tôi là một người đọc chuyên nghiệp, tôi đọc từ năm 12 tuổi, đọc không biết cơ man nào sách vở. Cha tôi là người có học, ông biết văn học, biết triết học, biết tiếng Pháp một cách chuyên nghiệp nên tôi được tiếp xúc với văn học phương Tây, văn học Pháp từ tấm bé. Cha tôi đọc và dịch cho tôi nghe. Tôi đã từng đọc luận văn tiến sĩ của giáo sư Tôn Gia Ngân từ năm 16 - 17 tuổi. Giáo sư Tôn Gia Ngân có một luận văn tiến sĩ tại trường đại học Sorbonne tên là "Hình tượng nhân dân trong hài kịch của Molierè".

Hỏi: Từ học đến hành, ông có thể nói về những công việc mà ông tâm đắc nhất, có lẽ đấy là những việc từ sau khi làm cho nhà nước?

Trả lời: Cả cuộc đời tôi từ năm mười mấy tuổi đến giờ tôi chưa coi công việc gì là phụ cả. Tôi làm tất cả mọi việc cấp trên giao cũng như mình tự giao một cách cực kỳ nghiêm túc và trung thực. Không phải tôi bỏ nghề vì tôi không trở thành kỹ sư giỏi được. Tôi là một kỹ sư xuất sắc, tôi cũng là một người lính trung thành một cách xuất sắc. Tôi yêu đất nước, tôi yêu quân đội, thậm chí khi tôi bị loại ngũ vì yếu sức khỏe tôi còn xin đi bộ đội lại. Tôi nhớ rằng quận đội phó quận Hai Bà Trưng lúc bấy giờ là anh Nguyễn Đệ mắng tôi là sao dại thế, người ta xin ở nhà không được mình lại xin đi. Tôi là người làm việc một cách thật lòng ở tất cả các cương vị mà tôi đã có. Tôi không bao giờ giả vờ. Lúc nằm ở quân y viện vì bị sức ép của bom, giáo sư Nguyễn Thuyên ký quyết định loại ngũ tôi vì không đảm bảo sức khoẻ. Tôi xin giáo sư đừng đuổi tôi như thế. Ông ấy còn mắng tôi là ngu. Cái thú vị nhất trong con người tôi là tôi hoàn tất tất cả các nghĩa vụ bằng tấm lòng. Tài năng thì có thể việc này tôi dốt, việc kia thì tôi khá, việc khác thì tôi giỏi, nhưng tấm lòng của tôi với tất cả các chức phận mà mình đảm nhiệm trong cuộc đời đều đến đầu đến đũa.

Hỏi: Việc làm có ý nghĩa nhất trong cuộc đời ông là gì?

Trả lời: Việc làm có ý nghĩa nhất đối với tôi là tham gia chiến tranh. Tôi yêu thật lòng đất nước của mình, tôi yêu con người Việt Nam bằng tất cả những ấn tượng cao quý nhất, tất cả những quan sát sắc nét nhất mà tôi có về con người. Tôi là chuyên gia về quan sát con người.

Hỏi: Lâu nay người ta vẫn tranh luận xem cuộc chiến tranh ấy là hợp lý hay không hợp lý, quan niệm của ông về vấn đề ấy như thế nào?

Trả lời: Có thể về quan niệm chính trị, người này nói thế này, người kia nói thế khác, nhưng tôi không quan tâm. Tôi quan sát con người chứ không quan sát con người chính trị trong chiến tranh. Chị có thấy rằng tất cả những gì hay nhất, đẹp nhất mà con người Việt Nam tạo ra, tất cả những gì gây sự xúc động lâu dài nhất đối với tình cảm người Việt vẫn là sản phẩm trong chiến tranh? Chiến tranh là một môi trường khổng lồ làm bật lên những phẩm chất căn bản nhất mà một con người có, kể cả ngu dốt.

Tôi không nói chiến tranh hợp lý hay không hợp lý, chuyện ấy còn phải tranh luận nhiều. Nhưng phải nói môi trường ấy giúp con người thể hiện được những gì tinh túy nhất mà một cá nhân có. Chính vì quan niệm như vậy nên ở tôi không có căm thù. Tôi tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến mà không có lòng căm thù.

Hỏi: Đấy là quãng đời có ý nghĩa nhất, không thể khác hơn, dù sau này ông có thành đạt hơn?

Trả lời: Cái cây nào đã được gieo một cách cẩn thận thì khi nó trưởng thành nó đều thành đạt cả, từ cây lúa cho đến cây mít. Chỉ có những gì không được gieo một cách cẩn thận, không được trồng một cách cẩn thận thì mới không thành đạt. Thành đạt là kết quả tất yếu của quá trình gieo trồng một cách cẩn thận.

Hỏi: "Trong điều kiện bình thường và tốt", có lẽ phải thêm điều ấy mới thật chặt chẽ?

Trả lời: Có khía cạnh chị nói, nhưng kể cả sự sống sót thông qua diễn biến khốc liệt của cuộc sống cũng vẫn là một trong những điều kiện để đánh giá sự thành đạt. Thành đạt không phải là anh leo cao mà thành đạt là anh sống được trong những điều kiện không sống nổi. Chiến tranh gay gắt, khốc liệt đến mức dân tộc chúng ta có thể tự hào được là chúng ta đã sống trong những điều kiện đáng ra là không sống được.

Hỏi: Tầng lớp doanh nhân của Việt Nam mãi sau này mới hình thành, thậm chí bây giờ vẫn chưa thành doanh nhân thật sự, chỉ mới có một số người thôi. Ông đã bước vào nào lĩnh vực ấy và trở thành một CEO hàng đầu như thế nào?

Trả lời: Tôi phải đính chính lại là tôi không phải là CEO hàng đầu mà tôi là CEO sớm nhất. Còn hàng đầu thì bây giờ nhiều người trẻ họ giỏi lắm. Chỉ một câu mà không khiêm tốn thì giá trị của mình vứt đi ngay. Cho nên tôi nói tôi là người thức tỉnh sớm về vai trò của đời sống thương mại, đời sống kinh tế. Tôi không phải là người xuất sắc nhất, không phải là đỉnh cao nhưng là người thức tỉnh sớm nhất. Có lẽ tôi không leo lên được đỉnh cao của đời sống kinh doanh là bởi vì đất nước chúng ta chỉ có thể tạo những điều kiện cho thế hệ của tôi thức tỉnh muộn, không thể thức tỉnh sớm được. Năm 1986 đất nước của chúng ta mới bắt đầu có điều kiện cho những người có máu kinh doanh hay khát vọng kinh doanh.

Tôi khẳng định lại là tôi vẫn không phải là một nhà kinh doanh. Có lẽ tôi là một nhà tư tưởng trong lĩnh vực kinh doanh thì đúng hơn. Kinh doanh là phương tiện để tôi tạo cơ sở tài chính để hoàn tất nghĩa vụ tối thiểu của một người đàn ông, của một người chủ gia đình hơn là lý tưởng của tôi. Đến khi thấy mình đủ rồi thì tôi quay trở về với khoa học.

Hỏi: Tài sản đầu tiên bằng tiền kinh doanh của ông là gì?

Trả lời: Lúc tôi chưa lấy vợ, gia đình tôi có 8 người sống trong một cái buồng hai chục mét vuông cộng với phần xép nhỏ. Khi lấy vợ tôi xác định là không ở nhà mình được vì không thể đuổi em tôi đi mà vợ chồng mới thì không thể sinh hoạt trong cái không gian có nhiều thế hệ như vậy, cho nên tôi về ở nhờ nhà vợ từ năm 1973 cho đến năm 1990, với một nỗi niềm khổng lồ rằng ước gì có tiền để mua một căn hộ. Năm 1990 thì tôi đủ tiền để mua một cái villa lớn, năm 1991 tôi mua được mấy cái villa nữa.

Hỏi: Hiện nay nhiều người cho rằng thị trường bất động sản mang lại nguồn lợi đáng kể?

Trả lời: Tôi không hề kinh doanh bất động sản, tôi chưa bán đi bất kỳ cái nhà nào của tôi. Đấy cũng là một cách làm ở thế hệ của tôi bởi nếu để tiền mặt thì sẽ chi tiêu bừa bãi, con cái nó sẽ hư hỏng, thậm chí vợ mình cũng hư. Cho nên biến nó thành tài sản cố định là một trong những cách giúp con người khó chi tiêu một cách bừa bãi. Nghèo khổ có cái đau khổ của nó, nhưng giàu có cũng có cái rủi ro của nó. Tôi cũng có thể hư. Tiêu tiền khó hơn kiếm tiền nhiều lắm. Rất nhiều người tưởng rằng kiếm tiền khó nhưng bằng kinh nghiệm của mình tôi cho rằng tiêu tiền khó hơn kiếm tiền nhiều. Bởi một người ít học sẽ tiêu tiền một cách ít học, một người thiếu đạo đức sẽ tiêu tiền một cách vô đạo đức. Ví dụ, bao một cô chân dài hay làm từ thiện một cách huênh hoang. Tiêu tiền khó lắm, tiêu tiền như một người có giáo dục, một người có đạo đức rất khó. Nhìn cách tiêu tiền của một người thì người ta sẽ hiểu chất lượng đạo đức của người ấy. Nếu kiếm tiền bằng mồ hôi nước mắt thì không tiêu tiền dễ dãi. Nhiều người giàu có, có cương vị cao không hư, nhưng con cái họ hư bởi chúng tiêu những đồng tiền mà chúng không phải kiếm.

Hỏi: Người Trung quốc có câu đàn ông có tiền thì hư, đàn bà hư thì có tiền. Tầng lớp doanh nhân hiện nay là tầng lớp bị đánh giá nhiều nhất về chuyện tiêu tiền. Ví dụ người ta nói cạnh đại gia thì luôn có người đẹp chân dài. Đấy là một hiện tượng xã hội. Ông nghĩ thế nào về văn hoá doanh nhân ở thời điểm hiện nay khi doanh nhân chưa biết sử dụng đồng tiền?

Trả lời: Tôi có những người bạn rất giàu có trên thế giới. Ví dụ, Kerry Packer, một tỷ phú truyền thông ở Úc hay Anderson, một trong những tỷ phú của nước Úc. Những người ấy họ tiêu tiền một cách rất nề nếp. ông Anderson đi chơi với tôi ở Sydney, đến trưa chúng tôi mỗi người một cái hamburger đứng giữa siêu thị ăn. Đấy là một tỉ phú, ông ấy có máy bay riêng để đi sang Việt Nam, nhưng ông ấy tiêu tiền như thế đấy. Những người lao động chân chính họ biết sử dụng đồng tiền, họ có thái độ rất vững chắc trong khi sử dụng đồng tiền. Cho nên chuyện chân dài chân ngắn không lệ thuộc vào tiền. Không phải là người giàu hơn thì kiếm được người đẹp chân dài hơn. Độ hư hỏng của những người có tiền quy định độ dài của cái chân ở bên cạnh chứ cái chân không dài cùng với tiền. Đấy là cách giải thích quan liêu của những người có không tiền đối với những người có tiền. Chúng ta cứ tưởng rằng những người giàu hoặc những người có cương vị mới quan liêu, ngay cả người nghèo cũng quan liêu.

Hỏi: Không chỉ là chuyện chân dài mà người ta còn nói về hiện tượng trọc phú?

Trả lời: Chỗ này cũng quan liêu. Không phải người giàu là ngu, không phải người có tiền là trọc phú cả đâu. Sự khôn ngoan, sự hiểu biết của người ta chắc chắn hơn nhiều so với sự hiểu biết mà nhiều người vẫn huênh hoang nói. Sự hiểu biết của một giáo sư được thói quen của xã hội thừa nhận, nhưng sự hiểu biết của những kẻ có tiền nó nằm sâu ở bên trong ruột của họ. Sự hiểu biết ấy không hề kém chất lượng so với những sự hiểu biết mà chúng ta vẫn quan niệm một cách quan liêu về giá trị của nó. Cả đạo đức cũng thế.

Hỏi: Tức là ở đây chưa có sự hiểu nhau?

Trả lời: Không chỉ có chuyện không hiểu nhau mà còn có cả chuyện không định hiểu nhau. Những giá trị ấy bị xuyên tạc một cách bừa bãi và vô nguyên tắc. Tôi tuyệt đối không xem người giàu là vô đạo. Có những người giàu vô đạo, nhưng bởi vì người giàu có tiếng hơn nên người ta nhìn thấy cái vô đạo ấy dễ hơn, chứ còn đại bộ phận giới tội phạm là những kẻ không có tiền. Chúng ta không thể nhắm mắt kết luận một cách ngốc nghếch rằng như vậy là giới tội phạm có đạo đức hơn bởi họ nghèo hơn.

Hỏi: Ông là người nghiên cứu con người, đây cũng là một kết luận của ông về con người trong thế giới đồng tiền?

Trả lời: Trong thế giới đồng tiền chúng ta thoáng nhìn thấy những mặt cáo cú, những mặt thủ đoạn của những kẻ có tiền, nhưng chúng ta không kịp nhìn thấy những mặt khác của nó. Quan sát con người là quan sát một cái đèn kéo quân, một cái đèn lồng có nhiều mặt nên chúng ta phải quan sát thật kỹ thì mới hiểu được và có những kết luận không quan liêu về nó. Từ trước tới nay chúng ta vẫn biểu dương nền tảng đạo đức của những người lao động, những người nghèo khổ và chúng ta huấn luyện cho con người Việt Nam một thói quen nhìn nhận theo định kiến như vậy. Cái thói quen ấy cần phải được bài xích, nhất là bằng phương tiện báo chí.

Hỏi: Người nghèo cũng có thể trở thành người giàu được tuy rằng rất khó. Sự giàu nghèo làm cho xã hội có những giai tầng khác nhau nhưng người ta vẫn có thể hiểu nhau. Ông có nghĩ sự hiểu nhau là cần thiết làm xã hội tốt hơn?

Trả lời: Tôi xin bổ sung thêm câu của chị là từ người nghèo đến người giàu rất khó, nhưng từ người giàu đến người giàu hơn khó hơn nhiều. Bởi từ người nghèo đến người giàu thì người ta phải vượt qua nhiều ranh giới, nhưng các ranh giới ấy không vượt quá ranh giới con người. Còn từ người giàu trở thành người giàu hơn thì đôi khi phải vượt quá ranh giới con người, cho nên chỗ đấy cần bổ sung.

Tôi không cho rằng trên thực tế có một nhu cầu là phải có biện pháp gì đó làm cho con người hiểu nhau. Việc ấy không thể kê khai để thanh toán được. Con người về bản chất chỉ hiểu nhau khi nào nó va chạm, giao lưu với nhau. Làm cho con người tự hiểu mình một cách đầy đủ là quan trọng nhất, và khi con người hiểu mình đầy đủ thì con người sẽ hiểu người khác dễ dàng hơn. Chúng ta cần đi tới sự chung sống hoà bình bằng ý thức mình là con người chứ không phải ý thức rằng kẻ bên cạnh là con người.

Hỏi: Nhưng trong thời kỳ hội nhập với thế giới chúng ta cần phải hiểu nhau?

Trả lời: Hội nhập không phải để hiểu nhau. Tất cả mọi cái mà chúng ta làm chúng ta đều quan niệm sai. Hội nhập là để chơi với nhau được, để làm ăn với nhau được, để ý thức về việc mình tìm kiếm những lợi ích trong sự tương tác với nhau. Cho nên hiểu lợi ích thì con người sẽ hiểu nhau. Con người không có mục tiêu hiểu nhau, và không ai tài trợ cho quá trình hiểu nhau giữa con người, nếu có thì đấy là những hoạt động từ thiện vu vơ. Con người hiểu mình và đặc biệt là hiểu lợi ích của mình đấy mới là điều quan trọng.

Hỏi: Nhưng con người cần hiểu văn hóa, hiểu luật pháp của các nước khác?

Trả lời: Đó là hệ quả chứ không phải là mục tiêu. Hiểu nhau là hệ quả. Hội nhập là đi tìm kiếm lợi ích. Tìm kiếm lợi ích tức là hiểu được cách mà những người bên cạnh mình làm. Khi hiểu được cách thức của người khác thì người ta sẽ hiểu nhau, chứ hiểu nhau không phải là mục đích.

Hỏi: Ông có thể khuyên một ai đó cần phải làm như thế nào để làm giàu, làm thế nào để hiểu biết hơn, nhưng nếu như ông nói thì phải chăng người ta không cần phải khuyên nhau mà cứ hiểu mình đã?

Trả lời: Con người hoàn toàn có thể khuyên nhau. Nếu không có nền tảng của khát vọng khuyên nhau thì không có giáo dục. Khuyên nhau giữa người nọ với người kia trong quan hệ cá nhân không phải là cái quan trọng nhất. Người ta trang bị cho con người công cụ để hiểu nhau chứ không phải bắt con người hay khuyến khích con người hiểu nhau. Giáo dục là phương tiện để cung cấp cho con người công cụ để hiểu người khác chứ không phải giáo dục là để hiểu người khác. Bởi vì không phải chỉ đọc sách là hiểu được con người. Hiểu con người chính là thông cảm. Thông cảm xuất hiện trong quá trình chung sống và chung sống chính là hoạt động cùng nhau đi tìm kiếm lợi ích, tương tác với nhau, thậm chí cạnh tranh với nhau. Thông cảm theo Durkheim, một trong những nhà sáng lập ra xã hội học hiện đại chính là nền tảng để tạo ra nhân loại. Không có các tiêu chuẩn của thông cảm, không có giáo trình để dạy thông cảm. Thông cảm xuất hiện cùng với giao lưu và chung sống, anh làm việc thật, anh lao động thật, anh cạnh tranh thật tức là anh sống như một con người tích cực thì anh nhanh chóng nhận ra nó.

Hỏi: Thông cảm có phải là một phạm trù lịch sử?

Trả lời: Thông cảm không phải là phạm trù lịch sử, thông cảm là công nghệ sống. Bởi nếu anh không thông cảm thì anh không sống được. Thông cảm tạo ra nhân loại và con người phải học cách thông cảm.

Hỏi: Ông có thể phân biệt thông cảm với đồng cảm?

Trả lời: Đồng cảm thì bản năng hơn và hẹp hơn thông cảm. Những người nhà quê rất khó thông cảm bởi giới hạn hiểu biết của họ rất hạn hẹp. Nếu được xã hội hóa thì anh sẽ dễ thông cảm hơn bởi anh va chạm, anh từng trải với sự khác biệt. Chúng ta thích sự giống nhau mà không thích thông cảm. Cho nên phân chia thành giai cấp là chính trị hóa mối quan hệ giữa con người với nhau. Tôi cho rằng con người trước hết phải là con người đã, anh sống như một con người, hành động như một con người, hành động theo lương tri thông thường của một con người thì sự cảm thông sẽ phát triển cùng với sự chung sống. Tôi cho rằng làm gì thì làm, không được chia rẽ con người.

Hỏi: Vậy trong lĩnh vực kinh doanh thì thông cảm có ý nghĩa như thế nào?

Trả lời: Nó là nền tảng để ký kết hợp đồng, để tạo ra hợp đồng. Trong sự phát triển của hoạt động kinh doanh của nhân loại, khái niệm quan trọng số một là khái niệm hợp đồng. Khái niệm hợp đồng đã được Rousseau khái quát thành khái niệm khế ước xã hội. Hợp đồng là đưa ra một thỏa thuận có giá trị pháp lý mô tả sự cam kết hai phía hoặc nhiều phía. Trong kinh doanh thông cảm có giá trị là có thể ngồi với nhau để thảo luận. Hai người ghét nhau không thể ngồi thương lượng hợp đồng được. Nền tảng của hợp đồng là pháp luật nhưng tinh thần của hợp đồng chính là thông cảm.

Hỏi: Quay trở lại vấn đề con người hiểu nhau. Ông có thể nói rõ hơn về ý đó?

Trả lời: Tôi nhắc lại rằng không cần thiết phải tổ chức và bắt buộc con người hiểu nhau. Chứ còn con người luôn luôn có nhu cầu hiểu biết nhau.

Hỏi: Ông sử dụng ngôn ngữ như một nghệ sĩ. Có khi nào ông thấy bí trong sử dụng ngôn ngữ không?

Trả lời: Ngôn ngữ không đơn thuần là chữ viết. Một họa sĩ sử dụng một loại ngôn ngữ mà vẫn tìm kiếm được sự thông cảm, một nhà soạn nhạc không cần sử dụng chữ viết cũng tạo ra được sự thông cảm. Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu để mô tả mọi chuyện, trong đó khó nhất là mô tả sự thông cảm mà con người có với nhau. Với tư cách là một con người thì tôi sử dụng một trong các công cụ mà con người có xét về phương diện tín hiệu, đấy là tiếng nói, chữ viết. Tôi không bế tắc khi sử dụng ngôn ngữ. Cái bế tắc là lựa chọn ngôn ngữ như thế nào để đạt được độ thông cảm cao nhất trong các cuộc thương lượng.

Hỏi: Có vẻ như theo quan niệm của ông thì thông cảm là một khái niệm có tính chất nền tảng?

Trả lời: Thông cảm giải quyết cả các bài toán chính trị. Ngày hôm nay báo Vietnamnet vừa mới đăng một bài của tôi, bài rất hóc búa nhưng bằng cách sử dụng ngôn ngữ để mô tả trạng thái tình cảm của tôi đối với những vấn đề của đất nước thì họ vẫn đăng được.

Hỏi: Tức là lách được?

Trả lời: Tôi tự trọng đến mức không bao giờ lách bất kỳ ai, kể cả đó là Thủ tướng hoặc Chủ tịch nước. Cái chính là tôi kính trọng họ, tôi xem họ là một con người, một con người cụ thể với những mức độ giác ngộ khác nhau và tôi cố gắng tìm ngôn ngữ, tìm những chữ để nói ý của tôi mà không làm xúc phạm ai.

Hỏi: Vậy ông nói như thế nào về thói xấu của người Việt và thói xấu trong kinh doanh mà người Việt phạm phải?

Trả lời: Tôi không nói đến thói xấu. Không cần thiết phải nói đến thói xấu mà hãy nói về những cái tốt. Nếu chúng ta vỗ tay trước lá cờ màu đỏ thì lá cờ màu đen sẽ rũ xuống. Phải biết hoan nghênh những điều có thể hoan nghênh để thể hiện sự không hoan nghênh của mình đối với những thói xấu. Đấy là một trong những nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ xét về phương diện đạo đức. Làm thức tỉnh những đức tính tốt mà không làm thui chột cái sĩ diện hay tự ái của con người là nguồn gốc nhân văn của nghệ thuật ngôn ngữ. Việc sử dụng ngôn ngữ có tiêu chuẩn đạo đức của nó, và tiêu chuẩn đạo đức là tiêu chuẩn nền tảng để xúc tiến sự cảm thông. Vì thế người ta chỉ xây dựng sự cảm thông trong sáng trên nền tảng đạo đức. Nếu không có đạo đức thì nó trở thành một thứ mang chất lượng đồng lõa.

Hỏi: Ông vừa mới xuất bản cuốn sách "Đối thoại với tương lai". Ông có thể cho biết tương lai với ông là gì, điều mà ông đối thoại và để xây dựng tương lai ấy dựa trên những căn bản nào?

Trả lời: Hãy trả lại cho người Việt những đặc điểm tự nhiên của nó, để cho nó phát triển một cách tự nhiên giống như các dân tộc khác. Chúng ta không nên cưỡng bức nó phát triển theo ý chí chủ quan của bất kỳ ai. Đấy chính là nền tảng đạo đức của khái niệm dân chủ. Chúng ta thúc đẩy người Việt chạy vào tất cả các cuộc thi đua, làm cho người Việt chạy theo còi lệnh của chính quyền, đấy chính là dấu hiệu quan trọng nhất để thể hiện thái độ thiếu trách nhiệm đối với thân phận con người.

Tôi có một ông chú có một người con trai lấy một cô trước đây là trợ lý của tôi. Có lần ông chú tôi gọi điện cho tôi bảo "cháu phải làm thế nào để nó kính trọng bố chồng, kính trọng chồng." Tôi bảo "người ta có thể dạy, có thể bắt buộc con người làm nhiều thứ nhưng không thể bắt buộc con người kính trọng." Kính trọng là một loại tình cảm của sự ngưỡng mộ có một cách tự nhiên trong sự cảm phục của một con người đối với con người. Sự kính trọng đối với tất cả những ngưởi có quyền lực là kết quả tự nhiên của sự đáng trọng của họ. Chúng ta càng bắt người ta hô to bao nhiêu về sự kính trọng thì sự kính trọng thật càng bớt đi bấy nhiêu. Chúng ta càng in nhiều sách để nói về sự kính trọng mình thì sự kính trọng của thiên hạ sẽ càng bớt đi. Đối thoại với tương lai tức là làm cho con người sống như chính nó, tức là trả lại cho con người (không phải con người như một khái niệm mà con người như một cá thể) những giá trị căn bản của nó và nền tảng của nó chính là nhân quyền.

Hỏi: Những vấn đề như vậy có lẽ người phương Tây rất thích?

Trả lời: Tôi không xem có phương Đông và phương Tây, tôi chỉ xem có sự chênh lệch phát triển. Nói phương Tây lấy cá nhân làm gốc và phương Đông lấy tập thể làm gốc là sai.

Hỏi: Nhân quyền ở phương Đông có gì khác ở phương Tây?

Trả lời: Nhân quyền là phổ quát. Nhân quyền không có phương Đông hay phương Tây. Nhân quyền là đối tượng, là sở hữu tự nhiên, là bản năng của con người. Có một bài phân tích rất hay của một nhà triết học nói về nhân quyền, trong đó nói rằng trên đời này chỉ có hai lực lượng có khả năng tiến công vào con người là tội phạm và nhà nước. Nhà nước thì có nghĩa vụ ngăn chặn bọn tội phạm tiến công vào con người, xã hội có nghĩa vụ xây dựng pháp chế để hạn chế quyền lực của nhà nước khi nó có ý định tiến công con người. Cho nên hai vấn đề chính trị học quan trọng nhất trong lịch sử phát triển nhân loại là khắc chế tội phạm và khắc chế quyền lực nhà nước.

Hỏi: Trong cuốn sách "Đối thoại với tương lai" ông có nhắc nhiều đến sự lương thiện. Đặt trong môi trường kinh doanh có chuyện cá lớn nuốt cá bé, có chuyện kẻ thắng người thua thì khái niệm lương thiện được hiểu như thế nào? Đương nhiên sẽ có người sống và người chết?

Trả lời: Lương thiện là không trà đạp lên lợi ích của con người và con người vì lợi ích của mình. Thất bại trong kinh doanh không bao giờ đồng nghĩa với cái chết. Cạnh tranh lành mạnh là cạnh tranh không ai chết. Thua thì có và phải coi thua là chuyện bình thường. Ví dụ tôi bồi dưỡng một cán bộ mất bao nhiêu tiền của, nhưng bỗng nhiên người ta bỏ tôi đi thì đấy là tôi thua. Tôi thua nhưng tôi không chết vì cái tôi nhận được là người bỏ đi ấy lại thành đạt ở một chỗ khác, họ đã trả cho tôi được một cái giá là PR tài năng đào tạo cán bộ của tôi. Cho nên trí tuệ càng phong phú bao nhiêu thì quan niệm càng nhân văn bấy nhiêu.

Nguồn:
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • “Cái giá phải trả trong văn hóa cao lắm”

    21/02/2020Hồng Thanh QuangChúng ta hội nhập thế giới với tốc độ chóng mặt trong khi chúng ta chưa chuẩn bị sẵn sàng cả về nội lực và tâm thế. Nói cách khác, “bộ lọc” văn hóa của chúng ta hình như có chỗ nào đó đang trục trặc, “lọc” chưa kỹ, nên văn hóa của chúng ta còn thiếu khả năng lựa chọn, dẫn đến hậu quả là lời cảnh báo về tình trạng loạn chuẩn văn hóa, nhiễu loạn thị hiếu nghệ thuật đã và đang được thực chứng...
  • Ông Nguyễn Trần Bạt trò chuyện với Thomas Friedman

    05/09/2014...Trong tất cả các yếu tố cần phải chăm sóc để phát triển ở Việt Nam thì yếu tố đạo đức vẫn là một yếu tố buộc phải chú ý tới. Chúng ta muốn có một thế giới mà con người vẫn còn tử tế, hay nói cách khác là nó vẫn còn giữ nguyên các tiêu chuẩn cơ bản của con người thì chúng ta buộc phải chăm sóc đạo đức...
  • Khôn khéo, nổi giận và sức mạnh của đất nước

    27/06/2014Lệ Quyên thực hiện"Không có bất kỳ bài toán nào dễ xung quanh vấn đề Trung Quốc. Nó sẽ đeo đẳng lâu dài với số phận dân tộc chúng ta, và chúng ta buộc phải suy nghĩ về nó như là một thuộc tính để cấu tạo ra điều kiện sống của dân tộc mình" - chuyên gia Nguyễn Trần Bạt trao đổi với phóng viên Người Đô Thị về việc gia cường sức mạnh quốc gia bên cạnh mối quan hệ mang tính địa chính trị với Trung Quốc...