Ba nhân vật tên Hổ

07:16 SA @ Thứ Ba - 09 Tháng Hai, 2010

Trong danh sách nối dài các nhân vật lịch sử Việt Nam được nhắc đến trong Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Nhà xuất bản Văn hóa 1993), có hai người tuy không sinh năm hổ nhưng lại mang tên Hổ. Còn trong danh sách các nhà văn Việt Nam hiện đại (Nhà văn Việt Nam 2007), cũng có một người mang tên Hổ. Đó là Lê Như Hổ, Phạm Đình Hổ và Phạm Hổ.

1. Lê Như Hổ

Sinh năm 1522, không rõ năm mất. Văn thần đời Mạc, không rõ tên thật, người Tiên Châu, Tiên Lữ, Hưng Yên. Ông chẳng những có văn tài mà còn có sức khỏe hơn người. Tương truyền, ông là người ăn khỏe nhất nước ta nên đương thời gọi là Như Hổ. Năm 1541 đời Mạc Phúc Hải, ông đỗ tiến sĩ được sung chức Tả thị lang, phụng mạng sang sứ nhà Minh dâng lễ cống. Tại Trung Quốc, danh tiếng ông cũng vang dậy một thời. Đi sứ về, có công, ông được thăng Thượng thư, tước Xuân Giang Hầu.

Tương truyền, khi đi sứ Trung Quốc, ông học nghề làm dù và sau này, người Việt xem ông là tổ sư của nghề tàm dù ở nước ta. Có sách viết: sau khi đi sứ về, ông còn lấy được giống đỗ đen nhờ giấu vào chỗ kín. Vì thế cho đến nay, đỗ đen không được dùng để cúng, tế.

Ổng là người có thân hình đẫy đà, nhà nghèo mà hiếu học và ăn cực khỏe, mỗi bữa ăn hết một nồi bảy cơm mà chưa no nên từng được gọi là "trạng ăn". Bên cạnh việc ăn khỏe ông còn làm khỏe nữa.

Nhân sự này, người đời sau đã viết truyện Trạng ăn. Truyện này có một đoạn viết rất sinh động như sau: “Ở nhà vợ, Lê Như Hổ mỗi bữa ăn một nồi năm cơm, nhưng không dám đòi thêm, vì sợ cha mẹ vợ buồn. Vì thể ông không mạnh nên và việc học hành cũng có ý hơi lơ đãng. Bố mẹ vợ phàn nàn với bố đẻ Lê Như Hổ.

Ông bố đẻ mới hỏi: - Chớ tôi hỏi thực ông, mỗi bữa ông cho cháu ăn uống thế nào?
- Mỗi bữa tôi cho cháu ăn một nồi năm.
- Thảo nào! Nhà tôi tuy nghèo mà còn phải cho cháu ăn mỗi bữa một nồi bảy. Ổng cho cháu ăn ít nên nó biếng nhác là phải thôi. Ông cho cháu ăn thêm xem!

Ông bố vợ nghe lời, về cho con rể ăn mỗi bữa một nổi bảy. Lê Như Hố học có ý chăm hon trước một chút. Mẹ vợ thấy con rể như thế bèn phàn nàn với chồng?
- Ăn một nồi bảy cơm mỗi bữa mà tối đến chỉ học được có dăm tiếng đồng hồ. Ông khéo lựa rể quá. Cái ngữ này chỉ ăn khỏe cho mập thôi, chớ có gượng mà học cũng chỉ là học lấy lệ, chớ chẳng trông cậy gì được đâu.

Ông bố vợ nói:
- Nó ăn khỏe tất có sức hơn người. Trời cho nhà mình đủ ăn thì việc gì phải nói ra nói vào lôi thôi.
- Ông nói tức anh ách. Cứ ăn khỏe thì làm khỏe hay sao? Thì đấy, nhà ta có mấy mẫu ruộng bỏ hoang, cỏ mọc ngập đầu người, ông bảo nó đi dọn xem có được không nào?

Lê Như Hổ nghe thấy mẹ vợ nói thế, tức quá, hôm sau sau khi ăn cơm sáng xong, vác con
dao phát bờ ra ruộng. Đến nơi thấy có cây cao bóng mát, ông nằm ngủ một giấc say sưa. Mẹ vợ đi chợ về qua đấy, thấy con rể gối đầu lên gốc cây ngáy pho pho, bèn lật đật chạy về nhà gắt với chồng:
- Kìa, ông ra ruộng mà xem con rể ông kìa. Tưởng là ăn xong, vác dao ra ruộng làm gì, hóa ra ngủ khoèo. Ông còn bảo tôi thổi thật nhiều cơm cho nó ăn nữa hay thôi?

Bà lôi cho được ông chồng ra ruộng để tận mắt thấy thằng con rể ăn khỏe mà lười chảy thây chảy xác ra. Bất ngờ ra đến nơi thì cả hai ông bà thấy ruộng sạch quang cả rồi. Thì ra trong khi mẹ vợ từ ruộng về nhà rầy chồng thì Lê Như Hổ đã thức giấc, cầm dao phát cỏ liên miên, không nghỉ. Cỏ hoang bụi rậm đểu bị chặt phăng phăng, thậm chí có những vũng lầy có cá cũng không kịp chạy, chết nổi lều bều trên mặt nước. Ðến lúc ấy, bố mẹ vợ Lê Như Hổ mới biết cái khác người của con rể.

2. Phạm Đình Hổ

Sinh năm 1768, mất năm 1839. Danh sĩ đời Minh Mạng, tự Tùng Niên, Bình Trực, hiệu Đông Dã Triều. Ông là con Tham tri Phạm Đình Dư nên tục gọi là Chiêu Hổ, quê Đan Loan, Đường Hào, Hải Dương.

Ông đọc rộng biết nhiều nhưng thi không đỗ, lại gặp thời loạn nên muốn ở ẩn. Năm 1821, vua Minh Mạng vời ông ra và bổ làm Hành tẩu Viện Hàn lâm. Nhưng chỉ ít lâu sau thì ông từ chức.

Năm 1826, Minh Mạng lại triệu và cho làm Thừa chỉ Viện Hàn Lâm và Tế tửu Quốc Tử giám (như giáo sư đại học bây giờ), nhưng năm sau, ông cũng xin nghỉ dưỡng bệnh rồi từ chức. Sau, ông trở lại nhận chức vụ cũ, được thăng Thị giảng học sĩ. Đến năm 1832, ông về nghỉ hưu luôn.

Năm 1839 ông mất, thọ 71 tuổi (năm sinh, năm mất còn có sách chép 1770 – 1841, cũng thọ 71 tuổi).

Bình sinh, ông cùng Hồ Xuân Hương (người Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An, được coi là “bà chúa thơ nôm”) thường làm thơ bỡn cợt, còn truyền làm giai thoại.

Phạm Đình Hổ vốn muốn lấy văn thơ để nổi tiếng ở đời nên cả cuộc đời, ông chủ yếu dành cho việc sáng tác và biên soạn sách hơn là việc ở chốn quan trường. Nhờ đọc nhiều, đi nhiều, ông đã để lại nhiều công trình khảo cứu, biên soạn có giá trị trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Tất cả đều được viết bằng chữ Hán. Hiện còn lưu 22 tác phẩm, trong đó đáng kể có: An Nam chí (ghi chép về nước An Nam), Ô châu lục (ghi chép về châu Ô), Kiền khôn nhất lãm (cái nhìn tổng quát về trời đất), Lê triều hội điển (điển chương pháp luật thời Lê), Đạt man quốc địa đồ (Chân Lạp địa đồ), Ai lao sứ trình (hành trình đi sứ Ai Lao), Bang giao điển lệ (phép tắc luật bang giao), Nhật dụng thường đàm (từ điển từ ngữ và tri thức thông dụng), Hy kinh lãi trắc (giải thích ngắn gọn về bộ kinh Phục Hy). Ngoài ra, ông còn là tác giả của nhiều bộ sách: Quốc sử tiểu học, Hành tại diện đối, Quốc thư tham khảo, Châu Phong tạp kho, Châu Phong thi tập... Về sáng tác văn học, ông là tác giả của hai tập bút ký: Vũ trung tùy bút, Tang thương ngẫu lục (hợp soạn với Nguyễn Án) và hai tập thơ: Đông dã học ngôn thi (tập thơ học nói của Đông Dã), Tùng cúc liên mai tứ hữu (bốn người bạn thông, cúc, sen, mai).

Về thơ, ông có thi phẩm Hoài cổ (cảm nhớ chuyện cũ) rất đáng lưu ý:

Năm ngoái, hoa đào nở
Gió xuân sao lành lành
Đứng trước hoa, cô gái láng giềng khóc
Buồn quá, đôi lông mày sa xuống.
Đêm nay, hoa đào nở
Cỏ xuân sao mà xanh tươi
Đứng trước hoa, cô gái láng giềng tươi cười
Thơ làm xong, tự tay cô viết lấy.

Bên cạnh đó, ông còn có thi phẩm Hữu sở cảm rất tình tứ:

Trường An cô gái nhỏ
Tay thon bện tóc dài
Phòng khuê nào biết khổ
Hoa rụng quét xem chơi

Trường An cô gái nhỏ
Trăng non đôi mày cong
Trước gió đứng quên lạnh
Vì yêu mai trắng bông

Trường An cô gái nhỏ
Bên hoa tựa lan can
Ôm đàn cười chẳng gẩy
Những ngại lọt tai chàng.

3. Phạm Hổ

Sinh năm 1926 mất năm 2007, quê xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ông xuất thân trong một gia đình Nho học, học tiểu học ở Quy Nhơn, học trung học ở Huế,thi đỗ thành chung ở Quy Nhơn. Sau Cách mạng tháng Tám làm công tác tuyên truyền cứu quốc ở thành phố Quy Nhơn. Trong kháng chiến chống Pháp, là Ủy viên Ban Chấp hành hội họa Liên khu 5. Năm 1950, ra Việt Bắc dự học Văn nghệ Trung ương; tập kết ra Bắc, tiếp tục hoạt động văn học nghệ thuật.

Ông từng giữ chức Phó Tổng biên tập báo Văn nghệ, Phó ban đối ngoại Hội Nhà văn, Chủ tịch Hội đồng văn học thiếu nhi Hội nhà văn. Các tác phẩm chính đã xuất bản: Những ngày xưa thân ái(thơ, 1957); Ra khơi (thơ, 1960); Những ô cửa, những ngả đường (thơ, 1976); Vườn xoan (truyện ngắn, 1964); Tình thương (tiểu thuyết, 1974); Chú bò tìm bạn (thơ, 1970); Ngựa thần từ đâu tới (tập truyện, 1986); Chuyện hoa chuyện quả (6 tập, từ 1974 đến 1994); Cất nhà giữa hồ (tập truyện cổ tích, 1995); Nàng tiên nhỏ thành ốc (bộ ba kịch, 1980); Tuyển tập Phạm Hổ (1999).

Ông đã đoạt nhiều giải thưởng văn học, trong đó đáng kể có Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật đợt 1 năm 2001.

Ông có sở trường làm trường làm thơ và viết văn cho thiếu nhi. Trong những tác phẩm viết cho tuổi măng non, bài thơ Xe cứu hỏa của ông rất đáng nhớ:

Mình đỏ như lửa
Bụng chứa nước đầy
Tôi chạy như bay
Hét vang đường phố
Nhà nào có lửa
Tôi dập tắt ngay
Ai gọi cứu hỏa
Có ngay! Có ngay!

Trong Thơ Việt Nam thế kỷ 20 (thơ trữ tình, Nhà xuất bản Giáo dục 2005), Phạm Hổ được tuyển chọn 2 tác phẩm: Những ngày xưa thân ái và Qua Bạch Đằng. Riêng bài thơ Những ngày xưa thân áidưới đây được hạm Hổ viết vào năm 1950 của thế kỉ trước và được nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ phổ nhạc trước năm 1975:

Tôi bắn hắn rồi
Những ngày xưa thân ái
Không ngăn nổi tay tôi.

Những ngày xưa thân ái
Chắc hắn quên rồi
Riêng tôi, tôi nhớ:
Đồng làng mênh mông biển lúa
Sương mai đáp trắng cỏ đường
Hai đứa tôi
Sách vở cặp chung
Áo quần nhàu giấc ngủ
Song song bước nhỏ chân trần
Gói cơm mo mẹ vắt xách từng tơn
Nón rộng thòng quai
Trong túi hộp diêm nhốt dế...
Những ngày xưa êm đẹp thế

Không đem chung hai đứa một ngày mai

Hắn bỏ làng theo giặc mấy năm nay
Tôi buồn tôi giận
Đêm nay gặp hắn
Tôi bắn hắn rồi
Những ngày xưa thân ái
Không ngăn nổi tay tôi

Xác hắn nằm bờ ruộng
Không phải hắn thuở xưa
Tôi cúi nhìn mặt hắn
Tiếc hẳn thời ấu thơ.

Nguồn:
LinkedInPinterestCập nhật lúc: