Ông Nguyễn Trần Bạt giao lưu: Việt Nam gia nhập WTO - Cơ hội và thách thức

02:29 CH @ Thứ Năm - 08 Tháng Mười, 2015

Phó hiệu trưởng Trần Đức Thìn:

Kính thưa ông Nguyễn Trần Bạt, thưa quý vị đại diện cho InvestConsult Group, thưa các thầy các cô và thưa toàn thể cácem sinh viên. Tôi xin giới thiệu với các em InvestConsult Grouplà một công ty rất lớn, trước đây đã trao một số suất học bổng cho sinh viên của trường ta. Đó có là món quà hết sức quý giá dành cho những em sinh viên có kết quả học tập tốt và có ý chí vượt qua khó khăn. Nhân buổi nói chuyện với ông Nguyễn Trần Bạt, Chủ tịch - Tổng giám đốc InvestConsult Grouphôm nay, thay mặt cho nhà trường chúng tôi muốn nói lời cám ơn tới InvestConsult Groupđã hỗ trợ sinh viên của trường chúng tôi. Chúng tôi rất mong trong tương lai giữa nhà trường và công ty có mối quan hệ thường xuyên.

Như chúng ta đã biết, ngày 07/11/2006 đánh dấu một mốc rất quan trọng trong lịch sử phát triển hội nhập của nước ta, đó là Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Chắc chắn đây là một vấn đề mà không chỉ sinh viên Đại học Luật mà sinh viên của rất nhiều trường đại học khác cũng rất quan tâm. Thay mặt cho Đảng ủy và Ban Giám hiệu nhà trường, tôi xin khai mạc buổi nói chuyện của ông Nguyễn Trần Bạt với sinh viên Đại học Luật Hà Nội với chủ đề "Việt Nam gia nhập WTO - Cơ hội và thách thức".Xin chúc cho buổi nói chuyện của chúng ta thành công tốt đẹp!

Nguyễn Trần Bạt (NTB): Xin kính chào các thầy, các cô cùng tất cả các bạn. Khi chúng ta nói hội nhập, đổi mới với sự thơ thới, sự thanh thản của thế hệ trẻ thì các bạn sinh viên có thể nghĩ đó là một việc tất nhiên. Nhưng đối với những người đã đấu tranh gian khổ trong suốt cả cuộc đời thì để đổi mới, để hội nhập là cả một vấn đề. Hôm nay Quốc hội bỏ phiếu về việc nước CHXHCN Việt Nam gia nhập WTO, chỉ có 90% ủng hộ, vẫn có 3 phiếu chống và 2 phiếu trắng, điều ấy có nghĩa rằng không dễ dàng gì để hôm nay Chính phủ chúng ta, đất nước chúng ta hội nhập, chúng ta tham gia WTO. Cho nên, nhân dịp gặp gỡ này tôi xin tất cả mọi người vỗ tay hoan nghênh về quyết định của nước CHXHCN Việt Nam gia nhập WTO. Đây là một sự kiện vô cùng hệ trọng. Ngoài cuộc Cách mạng Tháng Tám và cuộc Giải phóng Miền Nam ra, tôi chưa thấy việc gì hệ trọng hơn việc nước chúng ta gia nhập WTO. Đây là một quyết định chính trị vô cùng sáng suốt của những người lãnh đạo Việt Nam.

Ban tổ chức có giao cho tôi nhiệm vụ trình bày với các bạn về hội nhập, về WTO. Tôi có những hiểu biết về WTO cũng giống như các bạn bởi vì các văn bản chính thức bằng tiếng Việt đang được chuẩn bị, chưa được công bố một cách công khai. Các bạn biết rằng cuộc đàm phán này kéo dài tới 11 năm, qua nhiều thế hệ bộ trưởng thương mại, qua nhiều đời thủ tướng và phải nói rằng nó vô cùng gian khổ. Tôi quen hầu hết những nhà đàm phán, làm việc, thảo luận và nghe được hầu hết tâm tư của những người tham gia các quá trình đàm phán, tôi hiểu rằng câu chuyện không hề đơn giản. Với tư cách là một người nghe ngóng trước và có điều kiện để nghe ngóng một cách kỹ lưỡng hơn các bạn sinh viên, tôi nghĩ rằng cách hay nhất để chúng ta sử dụng cho có ích thời gian của chúng ta là các bạn hỏi và tôi trả lời. Tuy nhiên, trước khi vào phần đối thoại, tôi xin nói một chút mở đầu về một số khái niệm.

Vấn đề mà tôi muốn nói là liệu hội nhập có phải chỉ là cơ hội và thách thức hay không và thế nào là cơ hội, thế nào là thách thức. Tôi đã nói chuyện với sinh viên của Khoa Quốc tế, Đại học Hà Nội, với sinh viên Khoa Quản lý đào tạo Quốc tế, Đại học Kinh tế Quốc dân về vấn đề này. Tôi không nghĩ rằng hội nhập chỉ có hai vấn đề là cơ hội và thách thức mà nó phong phú hơn như vậy. Sáng nay, trong buổi trao đổi với các đồng nghiệp của tôi, tôi có nói rằng bản chất của hội nhập hay công việc chính trị cơ bản của hội nhập là xây dựng nhà nước pháp quyền. Các bạn có thể thấy rằng công việc vất vả nhất sau khi đàm phán là công việc mà Quốc hội chúng ta đang làm ngày làm đêm để thông qua một loạt các bộ luật để kịp thời thoả mãn các đòi hỏi của Tổ chức Thương mại Thế giới. Tuy nhiên chúng ta cũng chỉ mới làm ở mặt tiền của quá trình lập pháp để phục vụ quá trình hội nhập thôi, bên trong lòng xã hội chúng ta vẫn còn rất nhiều công việc có chất lượng lập pháp phải làm để từ đó chúng ta hoàn thiện thể chế cho phù hợp với các đòi hỏi của quá trình hội nhập. Các bạn cũng thấy rằng ngày hôm qua chánh án Toà án tối cao của nước CHXHCN Việt Nam trả lời một cách cực kỳ vất vả trước các chất vấn của các đại biểu Quốc hội đối với hoạt động của ngành tư pháp, đặc biệt là của toà án. Các bạn là sinh viên luật, các bạn có một địa vị vô cùng quan trọng cho việc hoàn thiện Nhà nước Pháp quyền Việt Nam. Tôi không hiểu được nếu có ai đó không tin rằng sinh viên luật và giới luật sư rất có tương lai trong giai đoạn hiện nay. Khi Việt Nam quyết định hội nhập thì giới luật học càng có giá trị, và đến lúc nào đó các bạn sẽ thấy rằng nếu một người không phải tối thiểu là cử nhân luật thì sẽ không thể trở thành một công chức có chất lượng hành động thỏa mãn yêu cầu của thời đại. Trường Luật là một trường rất có tương lai trong toàn bộ giai đoạn phát triển sắp tới của đất nước chúng ta. Tôi hết sức cám ơn các thầy cô giáo và các bạn đã nghe tôi nói và cho tôi cái vinh dự được nói. Khi tổng thống Mỹ Bill Clinton đến Thái Lan, ông ta đã chọn trường Chulalonkorn, một nơi đào tạo các luật sư của Thái Lan để nói chuyện, để gửi các thông điệp chính trị của người Mỹ. Ngay cả ở Mỹ, khi cần gửi thông điệp chính trị đối với xã hội thì tổng thống Clinton hoặc tổng thống Bush cũng phải đến trường Yale để nói chuyện với các sinh viên luật. Vì thế, được nói chuyện với các bạn đối với tôi là một vinh hạnh, tôi cám ơn các bạn về cái vinh hạnh mà các bạn trao cho tôi.

Phải nói rằng chúng ta có một xã hội nếu xét theo quan điểm của một nhà luật học là một xã hội chưa hoàn chỉnh. Xã hội ấy chưa hoàn chỉnh bởi chúng ta chưa có một hệ thống nhà nước pháp quyền hoàn chỉnh và rõ ràng. Chúng ta có một công nghệ lập pháp rất thô sơ. Sự thô sơ của công nghệ lập pháp của chúng ta thể hiện ở chỗ người đưa ra sáng kiến lập pháp là những người hành pháp. Các nhà lập pháp của chúng ta tức là các đại biểu quốc hội nhiều khi đưa ra những chất vấn và nhiều khi chấp nhận những câu trả lời phi luật học. Đấy là một trong những nhược điểm được biểu hiện một cách công khai rõ ràng trên tất cả các phương tiện truyền thông. Chúng ta có một hệ thống tư pháp, một hệ thống xét xử rất không chuyên nghiệp, số lượng các vụ xử oan sai lên đến hàng chục ngàn tức là có hàng chục ngàn người bị oan tồn tại trong xã hội đang phát triển ở thế kỷ XXI. Chúng ta có một số lượng luật sư trên đầu người ở mức gần như thấp nhất thế giới. Chúng ta có một số lượng các công ty luật có lịch sử ngắn nhất thế giới. Chúng ta có một Bộ Tư pháp mà tuổi đời của nó cũng trẻ nhất trong tất cả các Bộ Tư pháp trên thế giới. Đó là những đặc điểm của tính không hoàn thiện hay tính chưa hoàn thiện của xã hội chúng ta. Vậy chúng ta hoàn thiện nó bằng cách nào? Nếu bỗng nhiên tất cả mọi nhà chính trị đều thức tỉnh về vai trò của việc hoàn thiện nhà nước pháp quyền, đều ủng hộ nó thì liệu xã hội có làm nổi cái việc ấy không với lực lượng các nhà luật học mỏng manh như hiện nay chúng ta có? Là một trong những người sử dụng nhiều nhà luật học nhất với tư cách là một tổng giám đốc công ty, tôi hiểu ra rằng ở xã hội chúng ta để hoàn thiện được các thể chế, vận hành nó như một đất nước hiện đại, chúng ta còn mất rất nhiều thời gian. Thứ nhất, chúng ta có một số cơ sở đào tạo luật như Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, Khoa Luật của Đại học Quốc gia Hà Nội nhưng tất cả công suất (chưa nói đến chất lượng) của các cơ sở đào tạo ấy hoàn toàn không đủ để cung cấp cho xã hội đủ lực lượng để hoàn thiện nhà nước pháp quyền dù bất kỳ theo nghĩa nào. Để làm như vậy thì ở mỗi một phường, ông chủ tịch phường phải là cử nhân luật nhưng hiện nay vẫn còn rất nhiều ông chủ tịch phường phát biểu một cách phi luật học.

Vậy làm như thế nào để cung cấp đủ số lượng các cử nhân luật để làm chủ tịch phường, xã? Với công suất của các cơ sở đào tạo luật học của chúng ta, tôi cho rằng hoàn toàn không đủ cung cấp cho xã hội chúng ta lực lượng để hoàn thiện nhà nước pháp quyền. Thứ hai, quan điểm đào tạo rất khác nhau ở các trường, thậm chí khác nhau ở các lớp học ở trong cùng một trường, khác nhau ở quan điểm thế hệ của các hiệu trưởng và các chủ nhiệm khoa. Do đó, chúng ta chưa thống nhất được các tiêu chuẩn để có thể có những sản phẩm là những nhà luật học phù hợp với đòi hỏi của thời đại. Thứ ba, các cơ sở đào tạo luật học của chúng ta là đào tạo khép kín, tính mở của hệ thống đào tạo phụ thuộc vào độ mở của các chính sách, độ mở của thái độ của các quyết định chính trị. Vì vậy, rất khó cho các cơ sở đào tạo đón trước tất cả các khuynh hướng để có thể giúp các cử nhân luật có đủ các phẩm chất để giải quyết vấn đề mang tính thời đại của chúng ta là chúng ta hội nhập như thế nào. Hội nhập không chỉ là một ý chí chính trị, hội nhập là một năng lực thật sự của con người, trong đó năng lực của những người hướng dẫn luật pháp là một trong những năng lực vô cùng hệ trọng. Ví dụ như vụ án người Bỉ bắt ông Bửu Huy, Phó giám đốc Công ty XNK Nông sản - Thực phẩm An Giang. Anh buôn bán mà không biết đã vi phạm pháp luật nước mà mình bán hàng đến thì anh không hội nhập được. Tôi cho rằng sự hiểu biết của nhiều thế hệ các cử nhân Luật do chúng ta đào tạo ra về hệ thống luật pháp quốc tế là không đầy đủ. Tôi có cộng tác rất lâu dài với một quan chức cao cấp từng là Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban nhà nước về Hợp tác và Đầu tư, ông Đậu Ngọc Xuân. Nhiều khi ông ấy nói với tôi rằng: "Tôi sợ rằng tìm ra một người hiểu biết một cách trọn vẹn và đầy đủ các bộ luật của WTO là một việc rất khó ở Việt Nam". Tất nhiên đấy là vào ba năm trước, còn bây giờ có lẽ tình hình đã khá hơn.

Tôi cho rằng, chất lượng, nhất là chất lượng để phục vụ hội nhập là một vấn đề. Do cái may mắn của nghề nghiệp mà tôi có điều kiện va chạm với hầu hết các bộ luật thương mại của các nền kinh tế quan tâm đến Việt Nam. Cách đây 15 năm tôi nhận một công việc của tập đoàn General Electrics. Đó là một hợp đồng so sánh luật chống tham nhũng của Hoa Kỳ với tất cả những quy định về chống tham nhũng ở Việt Nam, vì lúc bấy giờ chúng ta chưa có luật chống tham nhũng, chúng ta chỉ có những quy định có tính chất hành chính đối với việc chống tham ô và lãng phí. Và chúng tôi buộc phải đặt bên cạnh bộ luật chống tham nhũng của Hoa Kỳ những quy định rời rạc rất khó hệ thống của cái được gọi là hệ thống các quy định chống tham ô lãng phí của Việt Nam. Ngay từ 15-16 năm trước tôi đã thấy tính không tương thích của hệ thống luật pháp Việt Nam. Cho nên hội nhập ngoài tất cả những khó khăn về chính trị, ngoài tất cả những khó khăn về kinh tế, về thương mại có một khó khăn vô cùng to lớn, thậm chí nó là khó khăn bản chất, đó là việc chúng ta xây dựng nhà nước pháp quyền của chúng ta như thế nào để hội nhập một cách bình đẳng với tất cả các thể chế đang tồn tại trong khuôn khổ WTO. Đó chính là công việc của các bạn. Bây giờ, tôi rất muốn trả lời câu hỏi của các bạn.

Trước khi các bạn hỏi, tôi xin nói thêm rằng hỏi là một trong những kỹ năng hết sức quan trọng thể hiện tài hoa của luật sư. Các bạn xem phim và các bạn thấy rằng những luật sư tài thì không phải nói, không phải biện hộ nhiều mà họ chỉ hỏi thôi, hỏi các nhân chứng, hỏi bị cáo, hỏi cả ông công tố. Xin các bạn hỏi tôi như là một dịp để chúng ta rèn luyện kĩ năng chất vấn của một luật sư. Biết đâu nay mai trong số các bạn có nhiều người lại trở thành những nghị sĩ của nước CHXHCN Việt Nam, sẽ làm cho các Bộ trưởng phải điêu đứng vì phải chuẩn bị đủ trí khôn để trả lời các bạn.

Sinh viên (SV):Có sinh viên nhận xét về cơ chế đào tạo của Việt Nam rằng "khi dắt một con bò vào cổng trường đại học, con bò đấy trở thành một sinh viên, và khi dắt sinh viên ấy ra khỏi cổng trường đại học, sinh viên ấy là một con bò". Theo ông tại sao tất cả các cơ sở luật học đều không đáp ứng đủ nhu cầu, và tất cả các sinh viên luật ra trường đều không dám tự vỗ ngực và nói rằng Tôi tốt nghiệp Đại học Luật Hà Nội?

NTB: Tôi rất yêu quý và trân trọng những sinh viên không bước vào trường đại học với tư cách là một con bò. Tôi vô cùng trân trọng và chỉ tuyển dụng những sinh viên nào ra khỏi cổng trường đại học mà không biến mình thành một con bò. Thưa các bạn, cuộc đời của các bạn đẹp lắm, đôi khi các bạn cưỡi lên lưng nó mà không biết giá trị của nó. Cách đây 40 năm, khi tôi là sinh viên, chúng tôi không có hội trường như thế này, không có đèn chiếu như thế này, không có micro để có thể bày tỏ nguyện vọng của mình đối với thầy giáo. Nhưng các thầy giáo của tôi và thế hệ đại học của tôi rất nhiều người trở thành những Bộ trưởng. Bộ trưởng Đỗ Quốc Sam, Bộ trưởng Đặng Hữu là thầy của tôi. Thế hệ của chúng tôi không có đèn chiếu, không có hội trường để ngồi và không có micro để nói to được ý nghĩ của mình nhưng chúng tôi vẫn buộc phải tự tin. Các bạn trẻ thân mến, tôi không nói với tư cách là một kẻ đãi bôi khi trả lời các bạn, bởi các bạn thuộc thế hệ của con cái tôi, tôi không thể trả lời xã giao đối với con tôi được. Điều đầu tiên tôi phải nói với các bạn là không được phép coi thường chính cuộc đời của mình. Mình phải lái cuộc đời của mình, phải tận dụng không gian tự do mà mình có, tận dụng tất cả những gì mình có được trong tay để sống như một con người và không bao giờ được phép, kể cả trong giấc mơ nghĩ mình là một con bò bước vào hay bước ra từ cổng trường đại học.

SV: Thưa ông, ông có thể cho sinh viên trường Luật một lời khuyên ngay từ khi còn đang học tập trong trường Luật làm thế nào để khi ra trường có thể giúp đất nước hội nhập với thế giới?

NTB: Chúng ta có những bằng chứng vô cùng đẹp về những luật sư. Chúng ta đã có luật sư Phan Anh, ông ta đã làm nên một sự nghiệp vĩ đại, ông ta trở thành không chỉ một nhà luật học mà còn là một nhà văn hóa. Chúng ta có luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã làm quyền Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam. Chúng ta có luật sư Trịnh Đình Thảo, chúng ta có nhiều luật sư là bằng chứng sự thành đạt của nghề luật, của luật sư trong bất kỳ điều kiện gay gắt, khốc liệt nào của cuộc sống. Cái tệ nhất của sinh viên bây giờ là chỉ nghĩ xem học xong ra mình làm gì, mình kiếm việc như thế nào mà không học đủ để có năng lực thuyết phục cuộc đời rằng nếu các anh không tuyển mộ tôi thì các anh thiệt. Có một bạn sinh viên trường Kinh tế Quốc dân hỏi tôi rằng "Thưa ông, có phải khi ra trường sinh viên phải có được cái mà người ta cần mua không?" Tôi đã trả lời rằng không phải. Anh bán cái người ta cần, nhưng song song với việc đó anh phải thuyết phục mọi người rằng cái mà tôi có quan trọng hơn cái anh cần, bởi vì cái mà tôi có ngày mai anh mới biết rằng anh cần. Cho nên, tôi nghĩ rằng sinh viên một trường đại học như Đại học Luật phải tự tin. Tôi khuyên các bạn phải tự tin, phải tự hào về nghề nghiệp của mình. Năm 1990 tôi đến New York và được tổ chức nói chuyện tại Đoàn Luật sư New York. Không có đoàn luật sư nào trên thế giới này đem so được với Đoàn Luật sư New York, công ty luật nhỏ nhất ở New York cũng phải có 600 luật sư. Việt Nam còn rất lâu nữa mới có được công ty luật có 600 luật sư. Thế mà tôi đã nói chuyện ở đấy, tôi nói rằng tôi sẽ xây dựng một công ty luật chuyên nghiệp đầu tiên ở Việt Nam nhưng lúc ấy tôi chưa phải là luật sư, tôi chưa học luật. Tôi chưa học luật mà tôi có ý chí phải thành lập một công ty luật, phải trở thành luật sư, phải kiếm tiền. Với tư cách là một công ty luật, tôi rất ít khi lấy tiền người Việt mà tôi lấy tiền của những công ty có trụ sở ở những nơi như New York. Nếu bạn hỏi tôi khuyên bạn như thế nào thì lời khuyên của tôi là hãy tự hào về chỗ ngồi học của mình, hãy học hết mình.

Tuy nhiên, làm như thế nào để cho việc học trở nên hấp dẫn thì chúng ta có hai cái vướng. Thứ nhất là chúng ta có được học cái chúng ta muốn học không, bởi vì ngay cả nhà trường hiện nay cũng chưa tự do. Thứ hai là liệu học tất cả những cái mà nhà trường dạy rồi thì còn thời lượng để học thêm những thứ mà cuộc đời xác nhận rằng mình cần phải có không? Khi tôi còn là sinh viên năm thứ nhất, người yêu của tôi tức là vợ tôi bây giờ học Khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm. Học ở khoa văn thì có nhiều anh con trai tán hay lắm, mà tôi thì học trường Xây dựng. Một anh sinh viên Xây dựng vụng về thì làm thế nào có được năng lực để có thể bảo vệ cô bạn gái mà mình gửi ở khoa văn ấy. Tôi nghĩ rằng mình phải đi học văn, và tôi đã học văn tại chức tại khoa ngữ văn của một trường đại học. Khi chúng ta yêu cái gì thì chúng ta có thể bất chấp tất cả mọi thứ để làm miễn là chúng ta không làm việc xấu. Không có cách gì khác cả, nếu bạn muốn hấp dẫn, nếu bạn muốn tất cả mọi người nhìn bạn thèm thuồng bởi những năng lực bạn có thì bạn phải lao động một cách cực kỳ vất vả. Không có lối thoát nào cho một con người lười biếng cả. Không có một người anh hùng nào chết trên giường cả, hầu hết mọi người anh hùng đều chết trên trận địa. Muốn trở thành một kẻ hấp dẫn, uyên bác thì phải học, thậm chí học đến đổ máu cam chứ không phải học một cách thông thường. Không biết các bạn đã có ai đổ máu cam vì học chưa nhưng tôi đã từng có một thời kỳ như vậy.

SV: Với sinh viên mới ra trường khi đi tìm việc rất khó bởi vì các nhà tuyển dụng thường đòi hỏi phải có kinh nghiệm ít nhất là 1 đến 2 năm. Vậy theo ông, khi ra trường muốn làm việc với tư cách là một luật sư thì sinh viên Luật cần phải có những phẩm chất gì để có thể theo đuổi được mong ước của mình và vượt qua được yêu cầu về kinh nghiệm?

NTB: Đã có rất nhiều sinh viên hỏi tôi câu này, rằng bây giờ đến đâu người ta cũng đòi hỏi 2 năm kinh nghiệm. Ở Đại học Tài chính và Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Hà Nội sinh viên cũng hỏi tôi như vậy. Tôi có trả lời họ như thế này: Cơ sở nào tuyển người mà đòi hỏi sinh viên mới ra trường phải có 2 năm kinh nghiệm thì nó ngốc nghếch giống như việc đi hỏi vợ mà đòi hỏi người đàn bà mình lấy có hai năm kinh nghiệm về đàn ông. Tôi không quan niệm các bạn phải có 2 năm kinh nghiệm và tôi kêu gọi xã hội không nên đặt ra cái đòi hỏi ấy đối với sinh viên mới ra trường, bởi vì toàn bộ sức sáng tạo của con người là ở chỗ cái miền ký ức, cái tiềm thức của nó được chất chứa một cách chặt chẽ tất cả các kiến thức được đào tạo một cách căn bản tại nhà trường chứ không phải là kinh nghiệm chạy sô. Tất cả những người nào có năng lực chạy sô khi còn là sinh viên thì dường như dễ xin việc ở giai đoạn ban đầu nhưng cực kỳ khó phát triển và thành đạt ở giai đoạn sau. Nếu muốn trở thành một luật sư chuyên nghiệp thì không nên sốt ruột như bạn vừa nói. Tất cả những sự chuyên nghiệp đều được hình thành một cách rất tự nhiên. Ở công ty tôi có anh Đỗ Trọng Hải là cựu sinh viên trường luật. 12 năm trước đây khi anh Hải gia nhập công ty của tôi, có người bảo anh chàng quê mùa này thì làm thế nào để đào tạo được. Vậy mà bây giờ anh Hải đã là giám đốc Công ty Luật của chúng tôi và là Phó chủ tịch của InvestConsult Group. Tôi thấy có nhiều người trông bóng bẩy lắm, nhiều người hào hoa phong nhã lắm nhưng không trụ được bởi vì những người đó không có được phẩm chất của một người lao động tích cực, cần mẫn và kiên nhẫn. Các nhà luật học quan trọng đều hết sức cần mẫn và kiên nhẫn. Tất cả những người láu tôm, láu cá có lẽ dễ xin việc ở giai đoạn đầu nhưng khó thành đạt về lâu về dài. Với tư cách là một người 60 tuổi và là một trong những người làm nghề luật có thu nhập cao theo tiêu chuẩn quốc tế, tôi khuyên các bạn hãy kiên nhẫn, hãy từ tốn. Đừng sốt ruột, các bạn sẽ đạt được những sự phát triển mà ngay bây giờ các bạn không ý thức được, còn nếu sốt ruột thì bạn sẽ trở thành người đắt hàng nhưng không phải là người có năng lực phát triển, và cũng không có triển vọng. Phải học một cách kiên nhẫn, không có lối thoát nào khác cả. Tất cả những ai đòi hỏi bạn phải có 2 năm kinh nghiệm thì bạn đừng đến làm cho họ, bởi những người đòi hỏi một cách vô lý như vậy sẽ không đủ trí tuệ sử dụng khả năng của các bạn.

SV: Thưa ông, ông vừa nói về một phẩm chất của tuổi trẻ Việt Nam là phải tự tin. Với kinh nghiệm từng trải của ông, ông có thể cho biết một người tự tin là người như thế nào?

NTB: Một người tự tin là một người không nghi ngờ về khả năng của mình, không nghi ngờ về phẩm hạnh của mình. Một người tự tin là một người không nghi ngờ về sự chính xác trong mỗi một hành vi mình làm hàng ngày. Chúng ta đừng đi tìm điều gì huyền bí trong con người mình mà hãy lắng nghe tâm hồn mình xem mình có phải là người lương thiện không, mình có phải là người tốt không, hãy kiểm nghiệm phẩm hạnh của mình thông qua sự yêu mến, sự san sẻ các bí mật của người khác xung quanh mình. Xác định giá trị của một người là người khác. Người khác làm cho mình tự tin chứ không phải chính mình. Sự yêu mến, sự kính trọng và sự xác nhận về tính chính xác của các hành vi của mình của người khác dần dần trở thành nguyên liệu cho lòng tự tin của bạn, còn nếu không thì là chủ quan chứ không phải là tự tin.

SV: Thưa ông, trong lúc học ở trường thì sinh viên nói chung học lý thuyết rất nhiều nhưng cơ hội thực hành rất ít. Để tự tin hơn thì sinh viên phải có việc làm thực tiễn, như các sinh viên nước ngoài vẫn làm việc bán thời gian. Vậy các công ty luật như công ty của ông có thể tạo điều kiện cho sinh viên học việc không?

NTB: Tôi sẵn sàng tạo điều kiện cho các bạn, bạn nào thấy cần phải thực tập, thậm chí cần phải lao động ngoài giờ trong công ty của tôi thì đến gặp anh Đỗ Trọng Hải. Tuy nhiên điều mà bạn giải thích khi đặt câu hỏi thì lại sai. Sinh viên nước ngoài họ không có tiền thì họ phải đi lao động để kiếm tiền. Họ vừa học vừa làm chứ không phải vừa học, vừa làm nghề. Đại bộ phận các sinh viên ở nước ngoài làm thêm là đi rửa bát, đi dọn phòng ở khách sạn, đi quét lá trong công viên... Sinh viên trường Harvard cũng làm như vậy. Những lao động như thế không liên quan gì đến luật học cả nhưng nó có một giá trị khác, đó là làm cho anh hiểu đời, mà luật học là khoa học để điều khiển hành vi của con người trong cuộc đời của nó. Vậy thì hiểu đời cũng quan trọng như hiểu lý thuyết hay hiểu sách vở, cho nên thường những sinh viên nghèo học rất giỏi bởi vì họ có cơ hội để hiểu đời trước những sinh viên có hoàn cảnh thuận lợi về mặt tài chính. Đối với họ, đấy không phải là phương pháp hay cách thức gì cả mà là bắt buộc. Tuy nhiên phải coi chừng. Con trai út của tôi năm nay đang học năm thứ ba khoa PPE tức là khoa triết học và kinh tế học, tại trường Đại học Kinh tế London. Hè năm ngoái cậu ấy đến ngân hàng HSBC của TP Hồ Chí Minh, thực tập tại phòng nhân sự Head-hunting Department. Khi quay lại trường học thì cậu ấy luôn luôn nói về câu chuyện đi tuyển người. Tôi hỏi sau này học xong con định làm gì. Cậu ấy trả lời rằng chắc con làm nhân sự thôi. Cái việc mình làm trước khi tốt nghiệp đại học có thể có lợi nhưng nó gây ra một định kiến không phải có lợi hoàn toàn đối với một sinh viên. Chúng ta học nhiều thứ, chúng ta có một phổ rất rộng tất cả các cách tiếp cận của chúng ta đối với công việc. Trói mình vào một khía cạnh nào đó khi trí tuệ của mình, kiến thức của mình chưa đủ để lựa chọn đôi khi là một bất lợi. Cho nên, các bạn cần phải nhớ điều quan trọng nhất để một con người phát triển một cách lâu dài là tự do, không trói mình vào những kinh nghiệm ban đầu nào cả. Đấy là điều vô cùng quan trọng đối với tương lai của các bạn.

SV: Năm nay cháu là sinh viên năm cuối trường luật, ra tết cháu có nhận một đề tài "Sự gia nhập của Việt Nam vào tổ chức WTO với tư cách là thành viên chính thức". Cháu muốn bác chia sẻ cho cháu một số kiến thức để cháu có thể thực hiện thành công đề tài này và xin bác đánh giá về sự phát triển của Việt Nam sau khi gia nhập WTO?

NTB: Tôi sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm của tôi về WTO. Bạn có thể liên hệ với công ty của tôi, tôi sẽ cung cấp cho bạn những thông tin tóm tắt về tổ chức WTO. Tôi có thể cung cấp những bài viết mà các anh các chị đã ra trường cũng lâu rồi viết về khái niệm này. Phần thứ hai câu hỏi của bạn là tương lai của Việt Nam thế nào sau khi gia nhập WTO. Đáng ra bạn phải đặt câu hỏi như thế này: "Liệu Việt Nam có tương lai không nếu không gia nhập WTO?" Việt Nam có một tương lai giống như 149 nước đã gia nhập WTO, tức là phải lao động vất vả, phải nâng cao sức cạnh tranh của mình, phải hoàn thiện thể chế của mình để giúp con người của mình phát triển. Nhân dân phát triển chính là phát triển sức cạnh tranh của một quốc gia. Một đất nước mà nhân dân không phát triển được thì nước đấy không có sức cạnh tranh. Gia nhập WTO là một thất thiệt đối với những quốc gia không có năng lực cạnh tranh. Còn nhân dân có năng lực cạnh tranh mà đất nước không chịu gia nhập WTO thì nhân dân thất thiệt vì không có cơ hội để đua tài, để làm ăn.

Để trả lời tương lai của Việt Nam như thế nào thì cũng giống như 149 quốc gia kia, có thể bình thường nếu dân tộc chúng ta là một dân tộc bình thường, có thể vĩ đại nếu dân tộc chúng ta là một dân tộc vĩ đại. Dân tộc chúng ta đã từng vĩ đại trong nhiều loại hình hoạt động khác, liệu dân tộc của ta có thể trở thành một dân tộc vĩ đại trong thời đại toàn cầu hoá không? Cái đó lệ thuộc rất nhiều vào việc nâng cao sức cạnh tranh, mà một trong những công cụ, một trong những hoạt động cơ bản để nâng cao sức cạnh tranh của xã hội là xây dựng một thể chế có thể làm cho con người phát triển một cách toàn diện. Người giúp nhà nước xác lập một thể chế hỗ trợ con người là các luật sư, là các cử nhân luật. Tôi nói như vậy là hoàn toàn có cơ sở chứ không phải là để đãi bôi các bạn. Chỉ có những người nào đủ gan và có một sự hiểu biết tối thiểu nào đó mới dám nói chuyện với sinh viên trường luật chứ không phải dễ. Lúc chưa làm luật sư tôi rất sợ các cử nhân luật. Vợ tôi là một nhà báo, trưởng ban biên tập bạn đọc của báo Phụ nữ Việt Nam từ năm 1976 cho đến khi về hưu, và có thời kỳ viết bài rất dài trên mục tâm sự với tên Thanh Tâm. Vợ tôi rất nhiều năm làm hội thẩm nhân dân để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ. Với tư cách là hội thẩm nhân dân, mặc dù là một luật sư không chuyên nhưng lập luận của bà ấy ghê lắm. Tôi kiên quyết học luật một cách có bài bản một phần là bởi sợ khả năng lý sự của vợ. Có lẽ cái đấy cũng là một yếu tố run rủi tôi đến với nghề luật.

SV: Thưa ông, nước ta đã có 20 năm đổi mới rồi nhưng kinh tế vẫn phát triển thấp, vậy 20 năm đổi mới ấy đã tích lũy đủ về lượng để biến đổi về chất chưa? Thứ hai, vấn đề quan trọng nhất của doanh nghiệp Việt Nam và nông dân Việt Nam là thiếu thông tin về WTO, vậy ông có cách nào giúp doanh nghiệp và nông dân có được thông tin không? Thứ ba, theo ông làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của nông dân Việt Nam khi gia nhập WTO?

NTB: Chúng ta đổi mới 20 năm, chúng ta đã khá hơn trước đây. Nhưng có những dân tộc khi gia nhập WTO người ta đã đổi mới 100 năm, người ta đổi mới liên tục, cho nên, đổi mới đã 20 năm rồi là một đổi mới muộn. Chúng ta có thể tự hào vì chúng ta đã đổi mới nhưng chúng ta không thể tự hào là đã đổi mới lâu quá rồi. Tôi nói rằng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam khi hội nhập là rất thấp. Khả năng cạnh tranh là gì? Khả năng cạnh tranh chính là khả năng có thể huy động được các nguồn lực. Xã hội chúng ta là xã hội chưa có nguồn lực có khả năng cạnh tranh, bình quân thu nhập đầu người mới 400-500 USD/năm thôi, bây giờ nghe nói là lên được 700 USD nhưng tôi chưa tin con số này. Tuy nhiên, nếu là 700 USD đi nữa thì vẫn rất thấp. Chúng ta là một nước có chỉ tiêu phát triển rất thấp so với toàn bộ điều kiện phát triển của nền kinh tế thế giới, vì thế chúng ta còn phải cố gắng nhiều lắm. Không thể tự hào về 20 năm đổi mới được, không thể ỉ lại vào việc đã đổi mới tới 20 năm. Mặc dù 20 năm là một thời gian rất dài đối với mỗi một cá nhân nhưng đối với sự phát triển của một dân tộc thì nó ngắn và chưa đủ.

Về câu hỏi thứ hai của bạn, tôi nghĩ rằng, phổ biến thông tin về WTO là một khái niệm có vẻ mang đậm màu sắc của nền kinh tế bao cấp, bởi vì nói cho cùng thì thông tin là có và Thủ tướng Chính phủ đã lệnh cho Bộ Thương mại phải đưa nó lên mạng, cho nên những ai cần thì phải tự đi kiếm. Bây giờ chúng ta không thể làm như cách đây 20 năm chúng ta làm. Nếu bây giờ mà sáng nào các phát thanh viên ở phường cũng đọc văn bản gia nhập WTO dài cả ngàn trang thì các bạn sẽ thấy rất phiền. Cho nên những ai cần thì phải đi tìm và cần phải phổ biến lên báo chí để mọi người biết rằng khi cần thì tìm nó ở đâu. Nhưng ngay cả khi biết chỗ tìm rồi thì cũng phải nói thật với các bạn rằng tìm thấy rồi mà đọc nó cũng chưa chắc đã hiểu. Tôi tin rằng ngay cả luật Việt Nam thôi mà đưa về nông thôn thì người ta cũng không hiểu, vì thế mới cần một đội ngũ chuyên nghiệp là luật sư. Cho nên, tôi nghĩ rằng chính sinh viên của trường luật là một đội ngũ hết sức hùng hậu để học luật WTO và trở thành người cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp để họ hiểu về WTO. Còn nếu phổ biến thông tin để các doanh nghiệp hiểu thì tôi không tin là họ hiểu đúng và không tin là họ hiểu đủ để có thể cạnh tranh. Đây là một bộ luật hết sức chuyên nghiệp đòi hỏi năng lực chuyên nghiệp mới có thể hiểu được, vì thế nguồn thông tin thì có thể có nhưng tôi không tin rằng phổ biến rộng rãi đến phường là một cách tốt, giống như trước đây chúng ta vẫn làm.

Về câu hỏi thứ ba, nông dân Việt Nam muốn cạnh tranh tốt thì cũng phải làm như nông dân các nước khác, chẳng có cách nào khác cả. Một trong những điều kiện mà chính phủ chúng ta rất khó xử khi đàm phán để gia nhập WTO chính là chấm dứt tình trạng bảo hộ đối với các sản phẩm nông nghiệp. Các bạn biết rằng, ở châu Âu người ta không bỏ phiếu phê chuẩn Hiến pháp chung châu Âu là bởi sự bất mãn của người nông dân châu Âu đối với các điều khoản về trợ cấp nông nghiệp của EU. Tất cả các vòng đàm phán của WTO được diễn ra một cách cực kỳ gay gắt chủ yếu bởi vấn đề trợ cấp nông nghiệp. Cho nên, chúng ta gia nhập WTO thì người nông dân phải vươn lên. Người nông dân vươn lên không có nghĩa là người nông dân phải đi học luật WTO. Người nông dân vươn lên là người nông dân tìm ra những kẻ chuyên nghiệp để biến nông thôn đơn giản thành một nông thôn có chất lượng thương mại. Tôi đã từng nói chuyện với đồng chí Phạm Chánh Trực là Phó ban Kinh tế Trung ương Đảng, ông ấy hỏi tôi giống như bạn hỏi: Làm thế nào để nâng cao các giá trị thương mại của các sản phẩm nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long? Tôi trả lời rằng phải thay thế bằng các hình thức khác, bằng các công ty nông nghiệp, các công ty thương mại nông thôn hay là thương mại trên các sản phẩm nông nghiệp. Bây giờ chúng ta đã bắt đầu có các sản phẩm bán ra với tư cách là sản phẩm có chất lượng thương mại chứ không phải là những sản phẩm có chất lượng thuần nông. Tự do hoá thương mại tức là tạo điều kiện để thương mại phát triển một cách không biên giới, đã không biên giới thì mọi người đều giống nhau, mọi người muốn giống nhau thì mọi người phải học tập để cho giống nhau. Người nông dân Việt Nam cũng phải làm như vậy, còn làm bằng cách nào thì tôi nghĩ là xây dựng các công ty kinh doanh ở nông thôn là một trong những cách tốt nhất. Cần phải thu hút tất cả những nhà đầu tư, tất cả những người có tiền, tất cả những người có trí khôn đô thị đầu tư vào nông thôn để lập ra những công ty buôn bán các sản phẩm của nông dân.

SV: Ông có nói rằng khả năng cạnh tranh của Việt Nam là rất thấp. Nếu không có khả năng cạnh tranh thì các doanh nghiệp sẽ có nguy cơ làm ăn thua lỗ và phá sản. Vậy việc gia nhập WTO có thực sự giúp ích cho doanh nghiệp Việt Nam không? Theo ông, ở Việt Nam hiện nay những ngành nào có thể chủ động khi hội nhập?

NTB:Tôi nói rằng sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam là thấp, chứ tôi không nói sức cạnh tranh của bất kỳ ngành nghề nào của Việt Nam là thấp. Khi nào anh có sức cạnh tranh cao thì anh cạnh tranh, cuộc sống bắt anh phải cạnh tranh. Nếu anh liều mạng cạnh tranh khi anh không đủ tiềm lực thì công ty anh phá sản. Người ta cường điệu việc phải cạnh tranh quốc tế khi chúng ta gia nhập WTO nhưng thực ra WTO là nơi chỉ để giải quyết các khúc mắc trong quá trình cạnh tranh toàn cầu. Trước khi chúng ta gia nhập WTO thì chúng ta đã cạnh tranh rồi, đã buôn bán quốc tế rồi. Các bạn đều biết rằng, lộ trình để chúng ta nâng cao sức cạnh tranh là tới 12 năm. Chúng ta có lộ trình, cho nên chúng ta cứ bình tĩnh mà làm. WTO không phải là một trận vỡ đê, không phải là một cơn lũ, không phải là một trận bão. Nó là một làn gió rất mát, nhưng chúng ta muốn không bị cảm thì chúng ta phải có áo quần tử tế và chúng ta chuẩn bị dần. Không phải gia nhập WTO là cạnh tranh ngay từ đây lên đến Lào Cai đâu. Nó không khốc liệt như thế vì trên thế giới này có 150 nước gia nhập WTO thì Việt Nam là nước thứ 150 mà thế giới cũng chỉ có khoảng 200 nước, có nghĩa là chỉ có 50 nước nữa chưa gia nhập thôi. Người ta sống được thì mình sống được, người Việt Nam mình có đến nỗi nào đâu. Cho nên, tôi nghĩ rằng bạn không nên quá băn khoăn chuyện ấy.

Trước đây khi chúng ta đóng cửa lại, chúng ta thấy ít tự do, chúng ta tiếp xúc với người nước ngoài khó, chúng ta đọc sách cũng khó, sách dịch không có, nhưng bây giờ cái gì cũng có, tức là hội nhập đem lại rất nhiều may mắn. Khi tôi còn là sinh viên làm gì có những bộ quần áo đủ màu sắc rực rỡ như vườn hoa trong hội trường như thế này. Tôi còn nhớ khi tôi đã trở thành quyền chủ nhiệm một bộ môn nghiên cứu tại Viện Khoa học và Công nghệ Giao thông Vận tải, một năm tôi có tiêu chuẩn để mua một, hai mảnh vải may quần. Có lần tôi ra cửa hàng bán vải ở Cầu Giấy, khi xếp hàng đến lượt thì người bán hàng nói rằng chỉ còn mỗi mảnh vải màu tím thôi. Tôi nói rằng chỉ có đàn ông mắc bệnh thần kinh thì mới mặc quần màu tím. Người bán hàng trả lời rằng chỉ còn mỗi mảnh này là hết, anh không lấy thì thôi. Có một người đứng xếp hàng sau tôi nói với tôi rằng: anh cứ lấy đi, vì chúng tôi ở Bộ Y tế, chúng tôi biết rằng có đến 75% người Việt Nam có dấu hiệu thần kinh phân lập. Nhưng tôi vẫn sống được đến ngày nay, vẫn có cơ hội để nói chuyện với các bạn. Chúng ta cứ đi qua tất cả các nỗi sợ chúng ta sẽ thấy không sợ nữa. Trong ký túc xá của con trai tôi ở bên Anh có một cửa hàng bán quần áo có một cái ma-nơ-canh mà tất cả các sinh viên khi đi qua đều cảm thấy sợ, nhất là lúc khuya khi có ánh đèn chiếu xuống cái ma-nơ-canh ấy. Con tôi cũng sợ nhưng nó bảo với tôi là mọi người sợ thì con cũng sợ nhưng con nghĩ rằng tại sao lại kéo dài nỗi sợ một cách ngớ ngẩn như vậy. Một hôm con đến đứng trước cái ma-nơ-canh ấy và nhìn nó trừng trừng trong nửa tiếng đồng hồ, hôm sau con không thấy sợ nữa. Chúng ta phải mở mắt ra để đối diện với tất cả các thách thức, để thắng nỗi sợ, để "sợ" không còn là ngôn ngữ mà chúng ta dùng để giao tiếp với sự hội nhập nữa.

SV: Thưa ông, có doanh nhân đã nói rằng: "Khi tham gia WTO thì người nước ngoài xâm nhập vào thị trường Việt Nam, vậy tại sao doanh nhân Việt Nam lại không thâm nhập vào thị trường nước ngoài?". Vậy việc chiếm lĩnh thị trường nước ngoài có phải là không tưởng không vì trên thực tế họ phát triển hơn mình và lĩnh vực dịch vụ của họ rẻ hơn mình?

NTB: Không phải vậy. Nền kinh tế của chúng ta có thể thấp hơn, người của ta có thể kém hơn nhưng sản phẩm của chúng ta chưa chắc đã thấp hơn. Một trong những hiệp định mà chúng ta buộc phải đàm phán một cách gay gắt nhất để có thể tiến tới việc ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ chính là Hiệp định Dệt may. Điều đó có nghĩa là sản phẩm dệt may, nền công nghiệp dệt may Việt Nam có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm dệt may Hoa Kỳ cho nên việc đàm phán về dệt may mới trở nên khó khăn như vậy. Đừng đồng nhất năng lực hiện tại của người Việt với năng lực của sản phẩm, bởi những sản phẩm Việt Nam không chỉ phản ánh năng lực Việt Nam mà còn phản ánh cả các năng lực của những lực lượng quốc tế có mặt trên lãnh thổ Việt Nam. Cũng chính vì thế mà người ta mới kêu gọi đầu tư nước ngoài. Kêu gọi đầu tư nước ngoài là một cách quốc tế hoá các năng lực của xã hội Việt Nam để tranh thủ hội nhập một cách thuận lợi. Vẫn có nhiều sản phẩm Việt Nam đang giữ địa vị cạnh tranh. Hôm nay Thủ tướng Việt Nam nói trên nghị trường rằng cafe Việt Nam hiện nay xuất khẩu hàng đầu thế giới, hồ tiêu thứ 5, thứ 7, gạo lên tầm thứ nhất, thứ hai và nhiều thứ nữa. Cho nên, chúng ta không hy vọng nền kinh tế Việt Nam sẽ chiếm một địa vị khả quan so với các nền kinh tế phát triển ở trên thế giới nhưng như thế không có nghĩa rằng không có sản phẩm nào của Việt Nam có địa vị trên thế giới, thậm chí địa vị lãnh đạo nền công nghiệp thế giới.

SV:Khi chúng ta gia nhập WTO, có một lĩnh vực rất nhạy cảm, đó là tài chính và ngân hàng. Theo ông, cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong lĩnh vực này như thế nào khi chúng ta hội nhập?

NTB: Thực ra sâu xa của vấn đề tài chính ngân hàng không phải là hoạt động tài chính ngân hàng. Vấn đề sâu xa của tài chính ngân hàng là tính minh bạch trong đời sống quản lý, kể cả đời sống quản lý xí nghiệp lẫn đời sống quản lý vĩ mô.Ví dụ, chúng ta có một số lượng nợ lên tới hàng chục phần trăm được gọi là nợ xấu. Nợ xấu là nợ được vay, được cấp cho các dự án không có tính khả thi về mặt kinh tế nhưng lại có ý nghĩa về chính trị. Tất cả tình trạng không minh bạch ấy là kết quả của việc chúng ta phải dung hòa những mâu thuẫn xã hội mà chúng ta có. Ví dụ, chúng ta đặt nhà máy lọc dầu ở Dung Quất rất là phi kinh tế. Nhưng làm thế nào để nhân dân miền Trung tin tưởng vào Đảng và Nhà nước nếu khi hội nhập và mở cửa họ không có lợi gì? Cho nên, chúng ta buộc phải phi kinh tế hóa một dự án để làm thuận lợi hóa, làm hợp lý hóa đời sống chính trị, mà đời sống chính trị ảnh hưởng cực kỳ thiết thực đến sự phát triển. Khi thế thích tình trạng phi kinh tế của chúng ta, thế giới không hiểu rằng sự phi kinh tế này là hậu quả của những việc khác. Tôi cho rằng, giải quyết bài toán tài chính và ngân hàng là giải quyết tính minh bạch của một nền kinh tế, tính phi logic kinh tế của một nền kinh tế. Không phải chỉ có ở chúng ta, Trung Quốc cũng vậy. Tôi đã từng tiếp xúc với Phó Thống đốc ngân hàng của Trung Quốc, ông Trần Nguyên, con trai của phó chủ tịch Đảng cộng sản Trung Quốc Trần Vân. Ông ta nói rằng Trung Quốc buộc phải thành lập ra một công ty chuyên mua nợ xấu của các ngân hàng để tạo ra trạng thái minh bạch giả tạo của các ngân hàng. Nhưng họ không có quá nhiều tiền để mua các nợ xấu và các nợ xấu đó vẫn tiếp tục phát sinh. Để giải quyết hệ thống ngân hàng và tài chính của chúng ta cho thỏa đáng theo các tiêu chuẩn của nền kinh tế thị trường thì chúng ta phải có một thời gian được gọi là lộ trình hoạch định cải cách để hợp lý hóa dần chuyện đó. Không chỉ có cải cách ngành ngân hàng mà phải cải cách cả các xí nghiệp nữa. Các xí nghiệp không có năng lực quản lý tốt mà vẫn sử dụng tín dụng thì sinh ra nợ xấu. Cho nên, tình trạng không tốt của hệ thống tài chính và ngân hàng là hệ quả của tính không chuyên nghiệp của cả nền kinh tế. Với tư cách là những nhà luật học, các bạn buộc phải hiểu điều ấy, buộc phải phân tích điều ấy, buộc phải xây dựng thể chế để tạo ra tính hợp lý của hoạt động tài chính và ngân hàng.

SV:Trung Quốc đã gia nhập WTO 5 năm và chúng ta có thể thấy rằng Trung Quốc được nhiều hơn là hại, nhất là ngành dệt may đã phất lên như diều gặp gió, làm cho một số nước phương Tây phải bàng hoàng. Tuy nhiên, khi gia nhập WTO Trung Quốc đứng trên vị thế của nước lớn, vì thế tiếng nói của Trung Quốc có rất nhiều trọng lượng. Theo ông Việt Nam gia nhập WTO với vị thế hiện nay thì ngành dệt may của Việt Nam có thể làm cho các nước phương Tây phải kinh hoàng không?

NTB: Xuất phát từ động cơ nào mà bạn lại nghĩ rằng Việt Nam phải làm cho các quốc gia khác kinh hoàng?

SV:Vì Việt Nam là con rồng đang trỗi dậy.

NTB:Tại sao bạn lại nghĩ rằng Việt Nam trở thành một con rồng, hay một con hổ?Đó là một trong những nét xấu của người Việt. Chúng ta phải sống thân thiện với thế giới. Mỗi một con người phải rèn luyện để sống thân thiện với nhau. Mỗi một quốc gia phải rèn luyện để sống thân thiện với thế giới. Quốc gia nào mà làm cho người ta kinh hoàng về mình là một quốc gia ngốc nghếch, bởi vì sự phát triển không tạo ra từ sự kinh hoàng của người khác mà từ sự hỗ trợ, yêu mến của người khác. Tôi không thích con rồng hay con hổ gì cả. Nếu các bạn hỏi tôi thì cá nhân tôi nói rõ rằng tôi không chờ đợi chúng trở thành con rồng hay con hổ gì cả. Tôi chờ đợi chúng ta trở thành một quốc gia bình thường, ở đấy con người sống hết các khả năng của mình, phát triển hết các khả năng của mình và tìm ra hạnh phúc trong chính cuộc đời thông thường.

SV: Thưa bác, cháu có một ý tưởng kinh doanh rất mong được bác đưa ra sự thẩm định và đánh giá hiệu quả kinh doanh của nó. Trong cuộc sống ai cũng có lúc cần đến luật sư, nhưng mỗi khi cần đến luật sư thì chúng ta tìm ở đâu? Những người ở vùng núi, những vùng xa xôi thì tìm ở đâu, về Hà Nội tìm luật sư hay mời luật sư về vùng quê xa xôi để tư vấn cho họ? Ý tưởng của cháu là sẽ thành lập một trung tâm hội tụ rất nhiều luật sư giỏi và người dân khi cần có thể gọi đến trung tâm, trung tâm trả lời tư vấn trực tiếp và lấy tiền thông qua hệ thống điện thoại. Nếu như ý tưởng này thành công, nếu như đưa luật sư đến gần với công chúng thì chúng ta có thể hái ra tiền, không phải là của người nước ngoài xa xôi mà chúng ta có thể hái ra tiền ngay trong mảnh đất này.

NTB:Tôi luôn luôn hoan nghênh tất cả những người có sáng kiến nhưng tôi không bao giờ làm cho một sinh viên cảm thấy một cách chắc chắn thành công vì các ý tưởng ban đầu của mình cả. Mọi ý tưởng là cần thiết nhưng sự thử thách của cuộc sống còn cần thiết hơn nhiều. Nếu các ý tưởng không được chính cuộc sống thẩm định và thử thách thì nó tạo ra hai hệ quả xấu đối với sự phát triển xã hội. Nếu xã hội không thẩm định các ý tưởng thì biết đâu xã hội trở thành thùng chứa của sự ngông cuồng. Nhưng xã hội mà thẩm định một cách khắt khe thì xã hội lại bóp chết tất cả các ý tưởng, tức là bóp chết triển vọng của con người. Cho nên, tôi cho rằng, có hai cấp độ thẩm định. Thứ nhất, sự thẩm định của trí tuệ của chính bản thân bạn, vì tất cả những ai định làm cái gì cũng phải hiểu rằng cái mình làm bao giờ cũng gây tốn kém. Sự tốn kém để thực thi các ý tưởng của mình đòi hỏi mình phải có trách nhiệm đối với các ý tưởng. Đấy là cấp độ thẩm định thứ nhất - tự mình thẩm định. Khi mình thẩm định một cách nghiêm túc với một thái độ nghiêm túc, với một suy nghĩ có cơ sở khoa học rồi thì mình cứ thể nghiệm. Thể nghiệm cũng không phải là chắc chắn thành công đâu. Đến lúc thể nghiệm thì phải kiên nhẫn. Có thể năm đầu chưa thành công, năm thứ hai chưa thành công, có thể đến năm thứ ba mới có dấu hiệu của sự thành công. Cho nên, người đó còn phải đủ nghị lực và tin tưởng vào sự đúng đắn của mình nữa. Có trách nhiệm trước sự đúng đắn của mình và phải tin tưởng vào nó thì mới đủ phẩm hạnh để có thể thể nghiệm, để có thể thành đạt.

SV:Bố cháu đã khuyên cháu rằng con học ngành luật nên phải cố gắng học giỏi tiếng Anh nữa để có thể nghiên cứu được tất cả các luật trên thế giới. Nhưng khi cháu đọc tài liệu về luật học bằng tiếng Anh mặc dù về nghĩa của từng từ thì cháu hiểu nhưng cháu không thể dùng ngôn ngữ của mình để diễn đạt văn bản ấy. Cháu băn khoăn là tại sao nước mình không đầu tư dịch sách luật của nước ngoài để chúng ta có thể nghiên cứu được trong khi đó lại đầu tư nhiều vào dịch các tác phẩm văn học, tiểu thuyết, truyện tranh. Xin bác bình luận về vấn đề này?

NTB: Câu hỏi này rất hay, nhưng đáng ra bạn phải hỏi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chứ không phải là hỏi tôi. Tuy nhiên cũng phải nói là chúng ta đã dịch rất nhiều sách luật, tôi nghĩ là bạn chưa mua và chưa đọc hết những quyển sách Luật đã dịch ra tiếng Việt. Có rất nhiều những sách như vậy. Nhưng phần đầu bạn nói là bố bạn khuyên bạn phải cố gắng học tiếng Anh cho tốt thì theo tôi là đúng. Kiêu ngạo như người Pháp mà cuối cùng cũng phải học tiếng Anh đấy. Trên thế giới này, người Pháp là người giúp người Mỹ làm cách mạng năm 1776 để tạo ra nền độc lập của Hoa Kỳ. Người Pháp là người đã tặng Hợp chủng quốc Hoa Kỳ tượng Thần Tự do. Người Pháp có Victo Hugo, có Balzac vĩ đại mà vẫn phải học tiếng Anh. Cho nên, người Việt Nam phải học tiếng Anh là tất nhiên, chẳng có cách nào khác. Cái đấy không phải là lý sự nữa mà là khẳng định và chúng ta cũng không thể cãi rằng tại anh không dịch sách luật cho tôi để tôi phải học tiếng Anh. Tôi cũng không giỏi tiếng Anh. Tuy nhiên, với kinh nghiệm của một kẻ không giỏi tiếng Anh, tôi mách bảo với bạn rằng bạn phải học giỏi tiếng Anh. Bạn không nên phê phán việc người ta không chịu dịch sách sang tiếng Việt cho bạn vì nói cho cùng nếu có dịch ra thì cũng không chính xác. Luật học là một ngành hết sức chậm phát triển ở những nước như chúng ta. Tôi có quen giáo sư, tiến sỹ luật học Tạ Văn Tài ở trường đại học Harvard. Ông Tài đã làm một luận án tiến sĩ Harvard rất hay là "Nghiên cứu bộ luật Hồng Đức", tức là nghiên cứu luật học Việt Nam bằng ngôn ngữ tiếng Anh. Chúng ta có một nền luật học hết sức chậm phát triển. Khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chúng ta có Bộ Tư pháp, luật sư Vũ Trọng Khánh là bộ trưởng đầu tiên. Sau đó chúng ta cho Bộ Tư pháp ngủ, mãi đến khi mở cửa chúng ta mới thành lập lại Bộ tư pháp. Do những quan niệm không chính xác của người Việt Nam về vai trò của tư pháp nên chúng ta không có một nền tư pháp phát triển. Chính vì thế, các chạn phải giúp nhà nước, giúp xã hội khắc phục cái khuyết tật mà họ đã tạo ra trong quá khứ. Để làm việc ấy thì phải học tập các bộ luật tiên tiến. Tôi có đến làm việc tại Miến Điện cách đây nhiều năm khi tôi làm giám đốc một quỹ đầu tư ở toàn bộ lưu vực sông Mekong của người Anh. Các nhà lãnh đạo Miến Điện khi làm việc với tôi có nói rằng, để xây dựng hệ thống luật pháp thì họ thừa nhận toàn bộ hệ thống luật Anh, chỉ khi nào muốn thêm cái gì thì mới xây dựng thêm các bộ luật đặc biệt thôi. Nhưng chúng ta không phải như vậy, chúng ta dũng cảm hơn, chúng ta xây dựng các bộ luật mà cho đến bây giờ có thể nói rằng tính hệ thống của nó có vấn đề. Chính vì thế chúng ta mới có một nền tư pháp không phát triển. Cho nên, các bạn phải là người sửa chữa, là lực lượng khắc phục những khuyết tật như vậy của đời sống xã hội.

SV: Thưa ông, đứng vào địa vị một nhà tuyển dụng, ông sẽ lựa chọn một sinh viên có kiến thức hay một sinh viên có bằng cấp nếu cả hai cùng nộp đơn vào công ty của ông?

NTB: Một sinh viên có bằng cấp tốt hơn hay một sinh viên có kiến thức tốt hơn? Tôi cho rằng bao giờ người ta cũng cần những sinh viên có kiến thức tốt, nhưng mà làm thế nào để cho một người biết rõ anh có kiến thức tốt? Các bạn là người đi bán sản phẩm mà mình có, cái sản phẩm ấy phải có chứng chỉ như ISO. Bằng cấp là một bằng chứng bạn đã được cấp chứng chỉ ISO. Còn người nào mà ngay cả khi có ISO rồi mà nó vẫn giả thì người đó thiệt. Cho nên không thể không nhận những người có bằng cấp tốt được đâu, chỉ có nhận nhầm những người có bằng cấp tốt mà không có kiến thức tốt thôi. Lời khuyên của tôi đối với các bạn không những là phải học tốt mà phải học để có điểm tốt. Rất nhiều anh lười biếng nhưng tự nhận mình là thông minh, ta không thèm học cho nên điểm ta không cao và dùng sự nhập nhằng mà xã hội vẫn có cho những tấm bằng giả để ngụy trang cho sự học không thật của mình. Phải học thật và phải phấn đấu để có điểm cao thật. Phải học thật và phải có năng lực thuyết phục thầy thừa nhận các kết quả học tập của mình. Nếu anh không xem thầy là gì, anh không bỏ công thuyết phục thầy thì anh có học giỏi, anh cũng không được thừa nhận. Đó là kinh nghiệm sống của tôi. Cho nên, phải học thật giỏi và phải thuyết phục thầy. Ngay cả khi thầy không phải là người thật sự công bằng thì chúng ta cũng phải kiên nhẫn để thuyết phục thầy tạo cho mình công bằng, vì chúng ta là sinh viên luật. Sinh viên luật là người sinh ra để xác định các giá trị của công lý, mà anh không có năng lực thuyết phục mọi người chấp nhận công lý thì anh không phải là luật sư giỏi, anh không học luật giỏi được. Vì thế, bài tập đầu tiên mà một sinh viên luật cần phải làm là hãy dành cho mình một giá trị công lý. Đấy là ý kiến của tôi về câu hỏi của bạn. Không lợi dụng tính nhập nhằng của xã hội để thuyết minh cho sự lười biếng hay sự không được thừa nhận của mình. Sự không học giỏi đã đành rồi, nhưng sự không được thầy cô thừa nhận cũng là khuyết tật, bởi đó là năng lực giữ gìn công lý cho bản thân mình.

SV:Hiện nay báo chí nói rất nhiều về giáo trình ở trường đại học. Tất nhiên ở trường luật thì giáo trình liên tục được đổi mới, nhưng có một luật sư nói rằng trong khi tuyển dụng họ không quan tâm đến việc anh ta bằng khá hay bằng giỏi mà chỉ quan tâm đến trình độ tiếng Anh và vi tính của anh ta như thế nào, bởi vì có những người học rất tốt nhưng đến khi làm việc thì họ lớ ngớ và khó đào tạo. Vậy vấn đề giáo trình có đặt ra thách thức gì không thưa ông?

NTB:Thứ nhất, trường Luật là một trường rất có điều kiện để thay đổi giáo trình và bắt buộc phải thay đổi giáo trình. Vật lý thì không bắt buộc phải thay đổi giáo trình vì Einstein vẫn chỉ là Einstein nhưng luật pháp Việt Nam thì thay đổi hàng giờ, hàng ngày. Nguyên Bộ trưởng Bộ tư pháp Nguyễn Đình Lộc có nói với tôi rằng ở Việt Nam có hiện tượng luật ống. Luật ống tức là xây dựng một cái ống, một cái vỏ tốt lắm nhưng trong ruột thì còn rỗng, do đó cùng với thời gian cần phải nhồi thêm vào. Việc nhồi nội dung vào cái ống luật pháp ấy tạo ra trạng thái thay đổi liên tục của luật pháp và do đó giáo trình phải thay đổi. Đó là một ưu thế của trường Luật vì nó chạy theo sự phát triển của luật pháp Việt Nam. Nhưng đấy không phải là một dấu hiệu ngụy biện, bởi vì cuối cùng các bạn sẽ thấy rằng chúng ta phải tiệm cận đến một trạng thái pháp lý có chất lượng hội nhập. Người ta nói hội nhập là một cơ hội, đấy làcơ hội để chúng ta đi đến cái đúng có giá trị phổ quát một cách ngắn nhất. Còn nếu anh thiếu tiếng Anh, vi tính thì anh không được trọng dụng bằng anh học dốt một chút mà tiếng Anh và vi tính giỏi thì cũng không khó hiểu lắm, bởi vì ngay cả những người sử dụng cũng không hiểu luật pháp là gì và cũng không thể khai thác luật sư thì làm sao người ta có thể khai thác được cái giỏi của anh luật sư. Cho nên, các bạn buộc phải học giỏi chuyên môn của mình nhưng cũng buộc phải hiểu biết tiếng Anh. Vi tính thì dễ hơn nhưng lại vô cùng quan trọng bởi vì toàn bộ tình hình thế giới được phản ánh trên các mạng thông tin. Nếu bạn ngẩn ngơ về mặt thông tin thì bạn không thuyết phục được ai cả. Vì thế, giỏi vi tính không phải là bạn đem khoe cái sự hiểu biết về vi tính mà khoe được hệ quả của sự giỏi ấy, đó là bạn có một lượng thông tin được cập nhật hàng ngày trên tất cả các phương tiện truyền thông. Và bạn phải có ngoại ngữ để có thể làm được điều đấy, bởi vì vào mạng mà không có ngoại ngữ thì làm sao mà đọc được. Mạng tiếng Việt của chúng ta thì không có gì đáng kể vì luật báo chí của chúng ta còn lạc hậu, luật quản lý báo chí cũng lạc hậu, cho nên, hệ thống thông tin của chúng ta hoàn toàn không đủ để cung cấp tri thức cho các bạn phát triển trong bối cảnh hội nhập. Chính vì thế các bạn buộc phải đọc những loại thông tin bằng tiếng Anh. Khách hàng đòi hỏi thông tin thì bạn phải biết tiếng Anh, phải biết vi tính. Những người biết tiếng Anh và vi tính thường có tốc độ phát triển trong đời sống nhanh hơn nhiều so với người không có hai thứ đấy. Khi học ở trường các thầy cô có thể đánh giá những người học giỏi luật pháp mà dốt tiếng anh và vi tính như một sinh viên giỏi nhưng chưa phải là đánh giá một luật sư. Thầy cô ở trường chưa đánh giá được chất lượng của một luật sư, thầy cô ở trường mới đánh giá một sinh viên học giỏi thôi, đấy là một thực tế.

SV:Thưa ông, từ năm 1998 trở lại đây, người ta thường nhắc rất nhiều đến thuật ngữ Head-hunting, nói một cách nôm na là săn tìm người tài, tìm mọi cách lôi kéo những người có năng lực về làm với mình. Vậy InvestConsult làm thế nào để giữ người tài ở lại với mình và có phải áp dụng chiến thuật gì không?

NTB: Câu hỏi rất hay. Head-hunting là một thuật ngữ để chỉ bộ phận tuyển dụng cán bộ, bộ phận nhân sự của tất cả các tập đoàn kinh tế ở trên thế giới. Nó đã trở thành một thuật ngữ phổ biến trong việc săn tìm nhân tài trên toàn thế giới chứ không phải chỉ Việt Nam. Ví dụ như bộ phận nhân sự của ngân hàng HSBC họ gọi là Head-hunting Department. Suy ra cho cùng, chúng ta đi làm để làm gì? Quan hệ bản chất giữa người lao động và công ty là tiền lương và sức sáng tạo hay sức lao động của người làm việc, đó là quan hệ trao đổi. Quan hệ ấy không bao giờ được nấp dưới bất kỳ danh nghĩa gì, dưới bất kỳ mỹ từ gì để che đậy bản chất cơ bản của nó. Cho nên, một người lao động muốn được quý trọng, muốn bán lao động của mình một cách đắt giá thì người lao động ấy phải là người lao động có giá trị sáng tạo. Mỗi người lao động hãy chuẩn bị cho mình loại hàng hóa như vậy, loại năng lực như vậy. Không ai cấm các bạn được, không ai căn cản các bạn được. Tuy nhiên, tài năng của con người thường được phát hiện bởi người khác. Trong một quyển sách tôi đã viết "thiên tài là một thứ mà người sở hữu nó là người cuối cùng biết đến nó". Cho nên, tôi nghĩ rằng cái mà bạn nghĩ là tài năng của bạn thì chưa chắc là cái tôi cần. Cái tôi cần ở bạn có thể không phải là cái bạn nghĩ. Cho nên, tài năng của một người lao động là do người đó xác định, người đó chuẩn bị, nhưng giá trị của nó là do người sử dụng lao động phát hiện. Đôi lúc hai cái ấy không trùng nhau, cho nên mới tạo ra một khái niệm thứ ba được gọi là sự may mắn. Bạn cứ sống hồn nhiên, cứ học hành một cách tích cực và thế nào cũng có một ai đó đủ tinh khôn để phát hiện ra cái mà bạn có. Những người như tôi chẳng hạn, trong cuộc sống không hiếm gì, nếu tôi nói với các bạn rằng những người như tôi hiếm lắm thì có nghĩa là tôi không trung thực. Biết bao con người sống rất thành công mà có cần đến tôi đâu. Biết đâu Thủ tướng phát hiện ra tài năng của bạn thì sao. Cho nên, bạn cứ mạnh dạn chuẩn bị cho mình, số phận sẽ dẫn bạn đến với một người nào đó có đủ tài hoa để phát hiện ra và biết sử dụng tài năng thật của bạn. Bạn phải tin như thế. Còn nếu như bạn muốn làm cho tôi thì bạn cứ đến và tôi phải nói với các bạn là tôi không bao giờ khắt khe một cách thái quá đối với người lao động xét về phương diện nghề nghiệp cả. Bởi vì năng lực nghề nghiệp khi các bạn ở trường ra là chưa đủ để làm việc cho tôi. Ít nhất phải qua ba năm, tức là phải có ba năm đầu tư vào con người thì người đó mới bắt đầu làm ra các giá trị thương mại. Tôi không khắt khe về chuyên môn, nhưng tôi cực kỳ khắt khe về sự lương thiện. Nếu một người nào đã trót không lương thiện thì không qua mặt tôi được. Tôi không bao giờ tiếp nhận người không lương thiện, nếu cấp dưới của tôi có nhầm lẫn thì tôi cũng tìm cách loại bỏ. Lương thiện là phẩm chất quan trọng nhất để tôi chọn hay không chọn một cán bộ. Nếu có một người được việc nhưng không lương thiện thì người đó không phát triển được ở chỗ của tôi. Ở chỗ tôi, tăng lương có nghĩa là tăng địa vị, tức là người đó phải điều khiển được một nhóm lao động, gọi là team leader. Để trở thành một team leader thì phải có các phẩm hạnh, mà phẩm hạnh quan trọng nhất là sống với mọi người được, tập hợp mọi người được, lao động cùng với mọi người được và chia sẻ cùng với mọi người được. Đối với phẩm hạnh tôi rất khắt khe. Còn khả năng thì tôi phải nói rõ là tôi buộc phải đào tạo, buộc phải cung cấp các điều kiện. Ví dụ, ở chỗ chúng tôi, các bộ phận đều có tạp chí nội bộ, anh em cán bộ viết bài mà bài đó được chấm giải nhất trong một số thì được thưởng tương đương với 100USD. Về điều kiện nghiên cứu để phát triển năng lực thì tôi có thư viện. Thư viện của công ty tôi có khoảng 10 nghìn đầu sách để cán bộ có thể đọc, nghiên cứu. Tôi cung cấp cho các bạn điều kiện để đào tạo cũng như điều kiện để tự đào tạo và lúc bấy giờ cái năng lực mà các bạn học, phôi liệu học tập của các bạn ở trường ra mới bắt đầu phát huy tác dụng, mới lên men trong điều kiện của công ty. Tôi không khắt khe về chuyên môn mà tôi khắt khe về phẩm hạnh vì tôi biết ai đi xa được, ai không đi xa được. Tất cả những người mà tôi đã từng đề bạt lên trưởng phòng, phó phòng, giám đốc, phó giám đốc, khi họ không còn làm việc cho tôi nữa họ giữ địa vị rất cao trong đời sống kinh tế của đất nước. Trợ lý của tôi trước kia bây giờ là tổng giám đốc Ngân hàng ANZ Việt Nam, có người từng giữ vị trí tổng giám đốc Công ty chứng khoán Sài Gòn, có cả những luật sư tốt nghiệp ở đây ra bây giờ làm việc cho Baker & McKenzie, White & Case... Tôi không giữ khi họ có đủ tài năng để có thể tìm kiếm những chân trời rộng hơn tôi, tôi luôn luôn trân trọng điều ấy. Tôi không phải là người ích kỷ tìm cách để giữ cán bộ trong vòng tay của mình, mặc dù vòng tay của mình đã bắt đầu hẹp và ngắn so với kích thước thật của họ. Vì thế, người của tôi rất có uy tín trong thị trường lao động Việt Nam. Tất cả những luật sư đã làm việc với tôi ba năm khi ra đi đều xin giấy xác nhận tư cách đạo đức tốt, năng lực tốt. Đó là một chứng chỉ hết sức có lợi để tìm kiếm không chỉ việc làm mà là địa vị trong các công ty lớn. Đã có những bằng chứng như vậy. Các bạn hãy mạnh dạn, các bạn đừng có băn khoăn gì, mà hãy băn khoăn xem mình có tốt không. Nhân dịp này tôi cũng muốn nói một điều khi có cả thầy cô giáo của các bạn là chuyên môn không phải là tất cả sự hấp dẫn của con người. Giá trị văn hoá, hiểu biết văn hoá, sự duyên dáng trong hành vi cũng như ứng xử của các bạn chiếm vào khoảng 50% giá trị thương mại của các bạn. Trình độ chuyên môn chỉ có giá trị khoảng 15% khi các bạn tìm công việc thôi. Sức hấp dẫn của các bạn, sự duyên dáng của các bạn, tính chín chắn của các bạn, lòng tốt của các bạn là những đại lượng có giá trị thương mại đối với người lao động thực sự. Đấy là lời khuyên của một người đã có kinh nghiệm dày dặn trong đời sống thị trường Việt Nam, mà không phải chỉ Việt Nam, tôi còn là người có kinh nghiệm về thị trường lao động có lẽ trong phạm vi cả những nền kinh tế phát triển trên thế giới.

SV: Công ty của ông đánh giá cao những giá trị nào trong công việc, tức là trong hoạt động của luật sư, ông đánh giá cao giá trị nào?

NTB:Các luật sư của tôi phục vụ cho những đòi hỏi rất chuyên nghiệp của những công ty chuyên nghiệp, cho nên, phẩm chất thứ nhất mà tôi cần ở luật sư của tôi là tính chính xác về mặt trí tuệ. Nếu trí tuệ mà không chính xác thì không cung cấp dịch vụ một cách đúng đắn được. Thứ hai là phải rất hiểu đời để đặt những kiến thức chính xác vào những tình huống chính xác của đời sống làm ăn. Thứ ba là phải biết diễn đạt một cách cực kỳ hấp dẫn để có khách hàng. Nghe các bạn nói trong hội trường này tôi thấy rằng, có bạn nói nhanh hấp tấp, có bạn thì nói ngọng, có nhiều bạn còn nói tiếng địa phương. Cần phải sửa ngay. Bởi vì, sửa chữa được những khuyết tật về văn hoá để đô thị hoá bản thân mình là một trong những đòi hỏi quan trọng nhất để hội nhập vào toàn cầu hoá. Tôi xin kể một câu chuyện, cách đây mấy hôm, tôi có ăn cơm với Phó chủ tịch Hội đồng Chính sách Khoa học và Công nghệ Quốc gia, giáo sư Hồ Sĩ Thoảng, ở Sài Gòn cùng một nhà văn khá nổi tiếng là nhà văn Tạ Duy Anh. Giáo sư Thoảng kể cho tôi nghe rằng, vào những năm ông ấy học bên Nga, có một người Việt Nam sang rồi đi buôn. Ông ta tìm ra chỗ mua xe đạp nhưng không biết bê cái xe đạp về như thế nào, cho nên cứ ra đường hô Việt Nam, Việt Nam... Cảnh sát Nga thấy thế chạy đến hướng dẫn nhưng nói tiếng Nga thì ông ta không hiểu nên họ mới đưa ông ta về Đại sứ quán Việt Nam vì thấy ông ta nói tiếng Việt. Nhưng ông ta bảo là không, tôi về Đại sứ quán của Cộng hoà miền Nam Việt Nam chứ không phải là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thế là ông ta cứ cãi nhau với cảnh sát nhưng phải cãi nhau qua phiên dịch. Khi về đến sứ quán của Cộng hòa miền Nam Việt Nam rồi thì ông ta sửng cồ với cán bộ sứ quán rằng Việt Nam ta nhất thế giới mà sao các anh không dạy cho người Nga nói tiếng Việt lại cứ bắt tôi phải học tiếng Nga là như thế nào. Người Việt chúng ta đã có một thời ngây thơ như thế. Chúng ta phải chấm dứt sự ngây thơ ấy, chúng ta buộc phải sửa mình, các bạn buộc phải đô thị hóa mình. Cái lợi lớn nhất mà người Việt Nam có được khi hội nhập chính là những sự hiểu biết có tính chất đô thị trong khuôn khổ của đời sống hội nhập quốc tế. Cái đó vô cùng quan trọng. Nếu không lịch lãm về mặt văn hóa, không ứng xử hấp dẫn thì chúng ta không thể bán mình đắt giá ở đâu cả, lao động của chúng ta sẽ bị mua rẻ qua các tầng trung gian. Việc xuất khẩu lao động của chúng ta là một biểu hiện hết sức rõ ràng về sự thiếu kinh nghiệm văn hóa. Vì thiếu hiểu biết về đời sống mà con người buộc phải chấp nhận xuất khẩu mình thông qua các đối tượng môi giới để dẫn tới một loạt các tiêu cực mà báo chí đã lên án. Cho nên, các bạn vừa phải biết ngôn ngữ, vừa phải biết văn hóa của ít nhất là các nền kinh tế, các quốc gia liên quan một cách mật thiết đến đời sống phát triển ở Việt Nam, cái đó vô cùng quan trọng. Không những thế, các bạn cũng phải sửa ngay cả cách ăn mặc. Sinh viên ăn mặc thoải mái tự do nhưng không có nghĩa là ăn mặc xấu. Các bạn phải tập ngay từ năm thứ nhất việc đô thị hóa bản thân mình, nhưng không phải là đua đòi. Tôi không khuyên các bạn đua đòi mà khuyên các bạn nên rèn luyện theo các tiêu chuẩn văn hóa để biến mình thành những người lịch lãm đủ để có thể đương đầu với mọi sự tai quái của đời sống quốc tế.

SV: Như ông đã nói, khi hội nhập chúng ta phải hiểu rõ pháp luật của quốc gia khác cũng như pháp luật quốc tế. Và ông cũng nói rằng, công ty của ông kiếm được nhiều tiền từ các công ty nước ngoài. Nhưng trong trường đại học Luật, ngoài khoa Luật Quốc tế ra, ở các khoa khác sinh viên không được học nhiều về luật quốc tế. Vậy ông có thể chia sẻ kinh nghiệm của mình về việc nghiên cứu luật quốc tế?

NTB:Khi tôi bắt đầu khá giả thì tôi có một nỗi lo là các con của tôi sẽ hư, cho nên tôi mua một bức tranh của một họa sĩ rất nổi tiếng người Nga, vẽ một đứa trẻ ăn xin đứng ở cửa một lớp học và treo trong phòng đứa con lớn của tôi. Tôi giải thích với con trai tôi rằng, thằng bé đứng ngoài cửa sổ không phải là con mà là bố. Bạn không phải là sinh viên Khoa Luật Quốc tế nhưng ai cấm bạn đọc luật quốc tế. Tôi không phải là sinh viên luật chuyên nghiệp, tôi học tại chức, tôi không hề giấu giếm điều đó. Tôi buộc phải học tất cả mọi thứ. Sự trớ trêu của số phận khiến bạn không học khoa quốc tế nhưng ý chí của bạn bảo bạn rằng phải học luật quốc tế thì bạn tự học. Tất cả những điều tôi biết là tự học, trừ những thứ mà tôi học theo đúng chương trình. Cho nên, bạn phải tự học thôi

Có lẽ tôi không phải là một người cố tình nghiên cứu luật của các quốc gia khác mà những tình huống làm ăn của tôi với các nền kinh tế buộc tôi phải tìm hiểu những khía cạnh luật pháp mà tôi va chạm. Cùng với thời gian, sự tích lũy của những kinh nghiệm va chạm tạo cho tôi một khối lượng kiến thức đủ để có thế nói với các bạn. Tất nhiên, với tư cách chủ tịch một công ty, tôi không chỉ làm giàu công ty của mình bằng cách làm giàu kiến thức của mình, tôi còn làm giàu công ty của mình bằng các cán bộ của mình. Con người tự làm nở rộng mình không phải chỉ bằng lao động của mình mà bằng cách kết hợp với lao động của người khác. Rất nhiều cán bộ của tôi biết hơn tôi về một lĩnh vực nào đó, nhưng họ nằm trong tập hợp của tôi cho nên tôi được tiếng là người biết nhiều thứ. Nếu bạn làm được như thế thì bạn sẽ có hai cái thành công cùng một lúc là bạn vừa có hiểu biết rộng rãi, lại vừa có một lực lượng lao động rộng rãi, tức là bạn trở thành người chủ của một cơ sở. Đó là cách của tôi, tôi chia sẻ với bạn bí mật ấy. Đôi lúc kiến thức của tôi không nằm ở tôi mà nằm ở những cộng sự của tôi. Tôi làm giàu tôi bằng sự có mặt của nhiều trí tuệ quan trọng bên cạnh tôi.

SV: Tôi xin bày tỏ sự ngưỡng mộ và sự kính trọng đối với ông. Trước khi đến đây tôi chưa biết ông là ai nhưng sau ba tiếng làm việc với những câu trả lời thông minh của ông thì thực sự tôi thấy kính trọng và ngưỡng mộ ông. Trong khi nghe ông trả lời, tôi thấy ông bày tỏ sự lo ngại về các nhà luật học, về đội ngũ luật sư của Việt Nam hiện tại. Vậy theo ông, trước xu hướng hội nhập các nhà luật học, các luật sư của Việt Nam cần phải làm gì để trở nên phù hợp với thời đại, để có thể hội nhập được với thế giới?

NTB: Kiên nhẫn, học trong đời sống, học trong sự thua thiệt của mình, học trong sự va chạm của mình, không có cách nào khác. Không có cách gì để ngay ngày mai chúng ta có ngay một đội ngũ luật sư có thể đương đầu với thế giới được đâu. Kiên nhẫn sống cùng với thời gian chúng ta sẽ có tất cả, sẽ biết tất cả, sẽ trở nên thông thái. Không có cái know-how nào, không có cái bí quyết nào, kể cả bạn có sang trường Harvard học thì cũng vẫn phải kiên nhẫn. Tôi quen rất nhiều người học ở Harvard về và tôi biết chắc chắn rằng không phải tất cả họ đều thành công, nếu họ không kiên nhẫn.

Nhà luật học phù hợp với thời đại thì phải hiểu thời đại mà thời đại là một khái niệm hết sức phức tạp. Chúng ta phải hiểu đặc trưng quan trọng nhất của thời đại chúng ta là gì? Là cái mà chúng ta đang thảo luận hiện nay. Đặc trưng quan trọng nhất của thời đại là toàn cầu hoá, là hội nhập. Nhà luật học quan trọng của thời đại chúng ta là người phải hiểu được thời đại, tức là phải hiểu được toàn cầu hoá. Hiểu được toàn cầu hoá chính là hiểu được sự chung sống của nhiều nền văn hoá một lúc. Khi chúng ta có kinh nghiệm về nhiều nền văn hoá hay là sự giao lưu của nhiều nền văn hoá thì chúng ta mới có cơ hội để phiên dịch sự khác biệt về mặt luật pháp cho người khác.

SV: Xin hỏi một câu nữa là ông có thể cho biết vị trí của công ty ông trên tầm thế giới không?

NTB: Công ty của tôi có giá trị như một kẻ hướng dẫn các cộng đồng kinh doanh có đầu tư nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam tốt. Tôi có nói đùa với các luật sư ở New York rằng, nếu như người ta không muốn chết trên đường phố New York thì người ta phải trả 1000 USD một giờ cho các luật sư New York. Người ta cũng phải trả cho chúng tôi một nửa như thế nếu không muốn mất tiền ở một khu rừng rậm nhiệt đới như Việt Nam. Người ta phải trả tiền cho tôi vì người ta không muốn mất tiền ở Việt Nam cũng như tôi phải trả tiền cho họ vì tôi không muốn trở thành kẻ ngẩn ngơ ở New York.

SV: Xin ông cho một lời khuyên đối với sinh viên về định hướng, các tiêu chuẩn, mục tiêu mà lớp trẻ cần phải vươn tới để trở thành một con người có ích theo xu hướng chung của đất nước khi gia nhập WTO?

NTB: Tôi khuyên các bạn chăm chỉ, lương thiện, lạc quan đối với đời sống. Tôi biết rất nhiều bạn có hoàn cảnh khó khăn, nhưng tôi phải nói với các bạn rằng dù các bạn có khó khăn gì cũng chưa bằng tôi. Tôi xin kể cho các bạn nghe câu chuyện về đời sống riêng của tôi. Tôi là một chàng trai quê ở một tỉnh miền Trung, ra Hà Nội năm 9 tuổi. Để có tiền đi học tôi phải đi bán nước ở ngoài Ga Hà Nội. Nhưng tôi vẫn yêu đời, tất cả tác phẩm văn học quan trọng nhất của lịch sử văn học nhân loại tôi đều đọc sau khi bán xong một giỏ nước. Tôi là người tham gia chiến tranh, đi lính, tức là có thể chết. Bây giờ, tuổi các bạn mà nói đến cái chết trong chiến tranh thì nó lạ, nhưng tôi va chạm với cái chết hàng giờ mà không chết, vẫn có cơ hội đến bây giờ nói chuyện với các bạn. Cuộc sống phát triển và đầy rẫy những sự xấu xa, sự lừa lọc ở ngoài đường, tôi vẫn giữ được sự lương thiện của mình. Bạn hỏi tôi là làm thế nào để thành đạt. Tôi trả lời rằng, tích cực, kiên nhẫn, lương thiện, yêu đời, đó là bí quyết của tôi.Muốn thành đạt, muốn hạnh phúc, mà hạnh phúc còn quan trọng hơn cả sự thành đạt thì cần phải có đủ các phẩm chất ấy và phải giữ được nó một cách ổn định.

SV:Trong cuốn sách Văn hóa và Con người của ông, có một câu rất hay "Mỗi thế hệ phải làm cho thế hệ sau của mình tốt hơn". Giống như ở Hàn Quốc, trong quá trình phát triển, họ luôn thúc đẩy từng thế hệ phát triển để biến Hàn Quốc trở thành một con rồng châu Á như hiện nay. Vậy ông có thể cho biết để thế hệ sau mình tốt hơn thì mỗi một thế hệ phải làm gì?

NTB:Câu hỏi rất hay. Tôi xin kể câu chuyện giữa hai cha con tôi. Tôi đưa con tôi sang Anh để đi học, lúc đó con tôi học lớp tám. Khi đi trên đường thấy xe ôtô chạy ngoằn nghèo, con tôi đi ra phía ngoài tôi để tránh ôtô va vào tôi, nhưng tôi nói rằng con không được hy sinh cái tương lai của bố để bảo vệ cái quá khứ của con. Tôi là quá khứ của con tôi và con tôi là tương lai của tôi. Khi nào chúng ta xem thế hệ sau là tương lai của mình thì chúng ta sẽ có thái độ đúng với họ. Tất cả mọi người đều có quan niệm đúng như vậy thì chúng ta sẽ trách nhiệm với nhau. Tôi nói với các bạn không phải với tư cách là người thành đạt mà tôi nói với các bạn với tư cách là một người cha. Tôi yêu mến các bạn thật vì các bạn là tương lai của tôi. Tôi không nói điều đó vì lý do xã giao vì không có lý do gì để xã giao cả. Người ta có thể xã giao với Thủ tướng, người ta có thể xã giao với Chủ tịch nước hay một ông phụ trách phân phối hàng hoá nào đó nhưng không ai lại đi xã giao với sinh viên cả. Vì hai lý do, thứ nhất, sinh viên chẳng có quyền lực gì để mà phải nịnh bợ. Thứ hai, sinh viên đẹp thế tại sao lại lừa bịp họ bằng sự nịnh bợ. Tôi nói thật lòng với các bạn rằng thế hệ trẻ là tương lai của tôi. Con tôi là tương lai của tôi và tôi có trách nhiệm với nó. Tôi yêu con tôi thì tôi nói thật với nó và tôi cũng sẽ nói với các bạn đúng như thế. Tôi không có cách sống khác.

SV: Thay mặt toàn thể sinh viên đại học Luật, cháu xin nói rằng, thực sự chúng cháu rất trân trọng những hiểu biết, những chia sẻ mà bác đã dành cho sinh viên Đại học Luật Hà Nội. Mong rằng trong thời gian sắp tới chúng cháu tiếp tục nhận được sự quan tâm của bác và công ty đối với sinh viên Đại học Luật Hà Nội.

Nguồn:
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Tự do - Tự lập - Tự trọng là những giá trị làm người số một

    12/11/2014Tự do - Tự lập - Tự trọng là những đại lượng hết sức quan trọng để hình thành giá trị của con người. Có những con người nếu mà đầu tư cho nó một chút thì giá của nó cao gấp mười lần so với giá tự nhiên, người ta gọi đó là lăng-xê. Rất nhiều người được lăng-xê, trông xa thì lấp lánh nhưng đến gần thì thấy rất thất vọng...