Một số vấn đề về nguồn gốc loài người dưới ánh sáng của khoa học hiện đại

09:05 SA @ Thứ Tư - 08 Tháng Tư, 2009

Khi đọc được cuốn sách "Nguồn gốc loài người" của G.N Machusin do nhà xuất bản Mia ấn hành bằng tiếng Việt 1986, tôi thấy rằng, trong nhận thức của chúng ta về chủ đề này đang có chỗ rất lạc hậu và tác phẩm của Machusin thật sự mang lại một tri thức mới (Tất nhiên, xung quanh vấn đề nguồn gốc loài người vẫn đang có những khuynh hướng tìm kiếm, phát hiện, nhận thức còn khác nhau).

1- Quá trình nhận thức về nguồn gốc loài người

Con người tự ý thức về nguồn gốc của mình đã từ lâu: từ nhận thức truyền thuyết, tôn giáo đến nhận thức khoa học và càng ngày càng đúng hơn. Từ các dấu hiệu được phát hiện, các giả thuyết khoa học lần lượt ra đời thay thế nhau, phủ định lẫn nhau hoặc bổ sung nhau một cách biện chứng theo đúng quá trình nhận thức.

Quá trình nhận thức nguồn gốc loài người là một vấn đề khoa học - khó khăn, không những vì thời điểm xuất phát con người cách xa hàng triệu năm, mà vì đó còn là một hiện tượng phức tạp phải có sự hợp tác nhiều khoa học mới giải quyết được. Và chỉ có đứng trên quan điểm khoa học liên ngành mới có phương hướng giải quyết đúng đắn.

Theo tôi về mặt nhận thức khoa học, nói một cách đại thể, thì có ba giai đoạn chính trong nhận thức về nguồn gốc loài người.

- Darwin (thế kỷ XIX) đã đưa ra quan điểm và chứng minh bằng thành tựu khoa học đương thời là, con người ra đời từ một giống vượn người (Hiện nay có tài liệu nói rằng cách đây hơn 200.000 năm, xem Báo khoa học phổ thông số Tết 1987) . Quá trình chuyển vượn thành người, Darwin cho rằng do tác động của thay đổi khí hậu mà loài vượn đã phải thích nghi với cách kiếm ăn trong môi trường mới, di chyển bằng hai chân… rồi dần dần thành người.

- Thời Mác- Ăngghen, Ăngghen cho rằng: chính lao động là điều kiện cơ bản quyết định sự chuyển biến của con vượn thành con người ngay trong quá trình chuyển biến cơ thể. Đây là phát hiện lớn của Ăngghen.

Mọi người vẫn quen với giả thuyết sự tiến hóa từ vượn sang người một cách dần dần, bằng cách thích nghi của cơ thể với môi trường trong quá trình lao động. Về mặt sinh học, con người khác động vật là đi bằng hai chân, giải phóng đôi tay, phát trển đại não. Yếu tố then chốt tác động vào cơ thể vượn chuyển thành người là do chuyển sang ăn thịt trong điều kiện khí hậu xấu đi. Đó là những điều mà Đại bách khoa toàn thư Liên Xô (1956) đã thừa nhận (Xem: Ma-chu-sin: Nguồn gốc loài người, Nxb Mia, 1986). Về mặt niên đại, thường cho rằng con người xuất hiện chỉ khoảng 40 - 80 ngàn năm trước, ở Châu Á.

- Nhưng đầu những năm 60 của thế kỷ XX đến nay, đã có nhiều phát hiện khoa học mới có liên quan tới nguồn gốc con người, trước hết là nguồn gốc sinh học và tự nhiên của con người (từ khảo cổ học, di truyền học, vật lý thiên văn…), làm chấn động thay đổi nhận thức truyền thống. Từ đó các giả thuyết khoa học về nguồn gốc con người lại xuất hiện.

Theo tôi hiện nay giả thuyết khoa học của trường phái Machusin là nổi bật và đáng tin cậy nhất. Giả thyết của Machusin "một giả thuyết độc đáo", mà nội dung chính của nó là: do ảnh hưởng lớn của bức xạ đã gây đột biến các gen làm cho con người xuất hiện, trước hết về mặt sinh học. Chính do sự xuất hiện cơ cấu sinh học mới (đi thẳng, vỏ đại não phát triển) đã bước chuyển sang lao động có hệ thống, mở đầu thật sự lịch sử của loài người. Cái nôi của loài người là ở Nam và Đông Phi. Lần đầu tiên con người xuất hiện cách đây không muộn hơn hơn 2 triệu năm (2.6 triệu năm trước). Đây là giả thuyết phong phú, tổng hợp được các tri thức khoa học trước đó và có nhiều căn cứ khoa học.

Theo chúng tôi, có thể coi đây là thời kỳ thứ ba, một đỉnh cao trong nhận thức về nguồn gốc loài người (Mà một trường phái khoa học ở Liên Xô do Machusin đại diện).

Như viện sĩ Dubinin, người viết lời nói đầu cho cuốn sách, nhận xét: vần đề lịch sử nguồn gốc con người vẫn "còn nhiều vấn đề chưa rõ". Tuy nhiên, phải thấy rằng tác phẩm của Machusin đã gợi ra những tính quy luật chung làm xuất hiện loài người (và theo tôi dù loài người ở hành tinh nào cũng tiến hóa đại thể như vậy về mặt tính tất yếu ở buổi đầu của nó). Đó mới là vấn đề quan trọng. Đạt được kết quả đó do khoa học hiện đại mang lại. Chỉ có trong thời đại khoa học hiện nay, mới có khả năng nói về nguồn gốc loài người tương đối chính xác (nhất là về tiến hóa sinh học).

II- Quan niệm hiện đại về nguốn gốc loài người.

Về mặt sư phạm, việc giảng dạy triết học hiện nay khi trình bày về vần đề nguồn gốc loài người, theo chúng tôi nghĩ, phải đừng trên quan diểm khoa học hiện đại, thành quả khoa học hiện đại, thấm nhuần phương pháp duy vật biện cứng và duy vật lịch sử.

Trong lịch sử khảo cổ học thì phát hiện của Liki ở Châu Phi là có tiếng vang lớn, lay động bác bỏ phần lớn những điều đã quen thuộc. đó là những phát hiện của cha con Liki vào những năm 60, đặc biệt là năm 1972, Liki tìm ra được các công cụ bằng đá và cái sọ người nguyên vẹn có tuổi 2.6 triệu năm (Côbipôda). Như thế có nghĩa là con người đầu tiên xuất hiện ở Châu Phi hơn 2 triệu năm trước, chứ không phải là 800 ngàn năm trước.

Tiếp theo các phát hiện ở Sada, một bộ xương người toàn vẹn có tuổi 3,5 triệu năm trước. Phát hiện dấu chân có dạng người đi thẳng ở Lêônlôn, có tuổi ba triệu năm và những công cụ bằng đá có tuổi là 2,1 - 1,9 triệu năm. Phát hiện ở Êtiôpi, những công cụ bằng đá có gần ba triệu năm, và tổ tiên mơi của con người có tuổi gần 4 triệu năm. Lại có dạng người xưa hơn (không gắn với công cụ lao động) là 5,5 triệu năm, có di cốt là 9 triệu năm, thậm chí có dạng người có tuổi lâu hơn nữa (14-24 triệu năm) như dòng Ostralopitec (do Đact phát hiện năm 1924 ở Châu Phi) .

Điểm mới mẻ ở những phát hiện này chủ yếu không phải là biết con người tồn tại có tuổi 2 - 3 triệu năm mà điểm mới chính là trước khi xuất hiện con người thì trước đó, con người về hình dạng, tức về mặt sinh học, đã xuất hiện sớm hơn con người về mặt xã hội hàng triệu năm (cụ thể 1,5 - 2 triệu năm). Như thế, hình dạng người đi thẳng, não lớn rõ ràng không phải do quá trình lao động quyết định (như cách hiểu trước đây).

Vậy cái gì quyết định sự tiến hóa sinh học động vật (con vượn đi 4 chân, não nhỏ, có răng nanh…)? Đó là câu hỏi không dễ trả lời.

Qua xác định thực tế về mặt môi trường địa lý thì những biến đổi quan trọng nhất (như khí hậu…) lại không trùng với thời điểm con người tách ra từ loài vượn (muộn hơn mấy triệu năm và lúc đó không một con vượn nào thành người). Và D.Hudôn cũng đã phát hiện ra rằng sự thay đổi lớn về khí hậu, băng hà, hay do chuyển sang ăn thịt, không hề thay đổi được dạng sinh vật vượn sang dạng sinh vật người. Vậy cái gì tạo ra bước chuyển biến đó? Khoa học khảo cổ đã xác định rằng: có một loài vật, khởi đầu chia làm hai nhóm, một là tổ tiên con người, người vượn và họ người (người hóa thạch và người hiện đại), hai là, vượn Gorila, hắc tinh tinh… như thế, con người có ba con với hắc tinh tinh (cả hai cùng một gốc sinh ra, nhưng không phải con người ra đời từ hắc tinh tinh hay vượn Gorila (số này hiện nay còn sống). Còn tổ tiên con người thì bị diệt chủng, mất tung tích, chỉ có loài người là tồn tại được.

Người ta cũng đã xác định rằng tổ tiên trực tiếp của con người là Ostralopitec, và cũng là người sơ khai. Thời gian tồn tại của Ostralopitec là 5,5 - 1 triệu năm. Khỏng 2,2 triệu năm trước đây, một bộ phận của dòng Ostralopitec chuển sang lao động có hệ thống (khởi đầu lịch sử loài người số còn lại sau đó bị diệt chủng cách đây 1 triệu năm). Sự tiến hóa của con người về mặt xã hội bao gồm các bước người sơ khai (người khéo léo, người đi thẳng…) và người hiện đại xuất hiện cách đây 40 ngàn năm.

Như thế giữa tổ tiên con người - dòng Ostralopitec (người vượn) và người sơ khai chỉ có khác nhhau là lao động, vì về mặt sinh học, tổ tiên con người cũng giống người sơ khai - xuất hiện rất sớm. Không ít hơn 1,5 - 2 triệu năm, trước khi chuyển sang lao động có hệ thống (G.N Machusin, Sđd, tr. 90) .

Thế nhưng nhà nghiên cứu trẻ tuổi Gudon và một số người khác cũng đã phát hiện qua quan sát hắc tinh tinh sống trong tự nhiện và trong hoàn cảnh thí nghiệm, rằng: hắc tinh tinh cũng biết lao động, chế tạo công cụ đơn giản (song mang tính chất ngẫu nhiên, không hệ thống và các công cụ chỉ bằng cành cây, chứ không chế tạo được công cụ bằng đá, công cụ trung gian. Song cái ngẫu nhiên nào cũng có cái tất nhiên trong đó và cái tất nhiên xuyên qua cái ngẫu nhiên mà bộc lộ ra.). Hắc tinh tinh cũng ăn thịt, biết chữa vết thương, xây chỗ ở, cũng có quan hệ "giao tiếp", cũng biết phân tích tổng hợp, học được 350 cử chỉ tượng trưng của người, cũng biết sử dụng ngôn ngữ nguyên thuỷ (hành động, cử chỉ), và trong giao tiếp cũng hiểu được nguyện vọng của nhau, hiểu được ý người, cách tổ chức sống theo quần xã với quan hệ tập tính… chặt chẽ, thứ bậc (do tuổi cao, do khôn hơn… mà đứng đầu quần xã). Trong hoàn cảnh giống nhau chúng cũng có những phản ứng giống nhau. Đó là những tập tính mà trong cuộc sống đã tạo ra "cấu trúc quần xã" của chúng. Những tập tính và cấu trúc này cũng gần với bậc thang tiến hóa đầu tiên của tổ tiên loài người. Nhưng dù sao chăng nữa, những tập tính và cấu trúc như vậy của hắc tinh tinh lại không thể chuyển lên thành tập tính của con người, thành cấu trúc xã hội loài người được. Và thực tế cũng không diễn ra.

Vậy cái gì đã nâng con người lên cao hơn động vật, cả về mặt sinh học, cả về mặt xã hội? Mấu chốt vấn đề là ở chỗ đó.

Trước hết về mặt sinh học

Người ta đã so sánh người và hắc tinh tinh thì máu hai loại này không có gì khác nhau đáng kể. Song chúng khác nhau ở bên ngoài, ở người não lớn hơn, đi bằng hai chân tất yếu (chứ không phải ngẫu nhiên), mặt người thanh, hàm nhỏ, không có răng nanh, thể lực kém hơn, còn về cấu tạo di chuyển (cấu trúc gen) thì ở người có 46 nhiễm sắc thể còn vượn bậc cao là 48 (vượn bậc thấp là 54 - 78) và khác cả cách cấu tạo phân tử AND. Theo lý thuyết di truyền, thì chính các gen quy định các đặc điểm và đặc tính cơ thể. Rõ ràng bí quyết sinh học ở con người là 46 nhiễm sắc thể với những cấu tạo độc đáo của nó. Căn cứ vào số lượng nhiễm sắc thể, ta thấy rằng có nhiều lần đột biết gen từ loài vượn lên loài người (từ 78 - 54 - 48 - 46). Như thế, về mặt sinh học, không phải tiến hóa dần dần mà do đột biến gen.
Song không phải khí hậu, hay ăn thịt, và cũng không phải do lao động mà gây ra đột biến gen, tức là tạo ra biến đổi hình dạng cấu trúc sinh học, tạo ra dạng sinh học người và tách tổ tiên người ra khỏi động vật, như trước kia quan niệm.

Ngày nay khoa di truyền học phóng xạ đã trả lời câu hỏi đó. Cụ thể, từ những năm 60 thế kỷ XX, sau khi phát hiện ra hiện tượng phóng xạ và sau vụ Mỹ thả hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố ở Nhật, các nghiên cứu khoa học cho hay là, các hiện tượng bức xạ ion hóa… là điều kiện chủ yếu làm đột biến gen có thể làm cho nhiễm sắc thể giảm bằng cách kết dính một thể nhiễm sắc (cũng có thí nghiệm xác minh và qua thực tế tiến hóa các loài).

Vậy tại sao con người lại xuất hiện ở Đông Nam Phi và vào thời gian hơn hai triệu năm trước đây?

Thực tế, vùng đó cách đây hàng triệu năm, đúng vài thời điểm xuất hiện con người, là một vùng nhiều quặng Clranithoiri… cùng với hiện tượng cấu tạo lại địa tầng, núi lửa hoạt động mạnh, các nếp gãy của vỏ trái đất xuất hiện, là phản ứng hạt nhân tự nhiên hoạt động tạo ra nền phóng xạ cao, trong khoảng thời gian tương đối ngắn. Đồng thời, bức xạ của vũ trụ, của mặt trời tác động đến theo chu kỳ (các vụ nổ ở mặt trời). Ở thời điểm đổi cực địa từ của trái đất (theo chu kỳ trên dưới 1 triệu năm) thì bức xạ của mặt trời lọt vào trái đất (lúc này sức cản của trái đất gần bằng không), đã làm tăng "phông" phóng xạ trên bề mặt trái đất (nhất là vùng Châu Phi). Cái thời điểm chuyển cực địa từ trái đất lại trùng với thời điểm xuất phát các dạng của họ người và con tổ tiên của con người.

Như thế, phải có một lượng bức xạ nhất định tác động vào cơ thể loài vượn người như thế nào đó, tạo ra một đột biến nhiễm sắc thể, sao cho còn 46 nhiễm sắc thể và có cấu tạo về đại thể như của con người hiện nay, xuất hiện con người về mặt sinh học. một cơ cấu di truyền mới như thế là nguồn gốc sinh học của con người, nguồn ốc từ đó dẫn đến con người xã hội tương lai. Nhưng để cho con người xã hội thật sự ra đời thì phải qua lao động có hệ thống. Nhưng vì đâu mà con người phải có lao động để thành con người. Rõ ràng sự xuất hiện một thể sinh học mới (đi thẳng hai chân sau, tay có khả năng cầm nắm, não lớn, không có răng nanh, không có lông, thể lực yếu…), theo Machusin, là tất yếu phải chuyển sang lao động có hệ thống và sống thành xã hội, nếu không sẽ không thê tồn tại được.

Chỉ thông qua lao động, chế tạo công cụ thì mới hình thành nên ý thức con người và quan hệ người, tạo thành xã hội loài người. Lao động là nguồn gốc cơ bản, chủ yếu, tạo nên con người xã hội, là qui luật cơ bản hình thành nên con người thật sự và xã hội loài người. Khoa học ngày nay càng chứng minh và làm sâu sắc phát hiện ấy của Ăngghen.

III- Mấy phân tích triết học về nguồn gốc loài người

Cách đặt và giải quyết vấn đề của tác giả Ma-chu-sin, theo tôi nghĩ, đã thấm nhuần được phương pháp luận duy vật và biện chứng của triết học Mác - Lê nin khá sâu sắc. Rõ ràng để giải quyết vấn đề nguồn gốc con người một cách khoa học, không chỉ dựa vào thành tựu khoa học hiện đại, mà còn phải sử dụng phương pháp biện chứng Mác xít để phát hiện các logic thật sự của quá trình tiến hóa từ loài vật sang loài người. Có như thế, mới bác bỏ được những nhận thức không đúng, cả về mặt khoa học cụ thể, cả về mặt triết học.

Theo chúng tôi cần đào sâu và lưu ý các khía cạnh sau đây có tính chất triết học trong chủ đề nuồn gốc loài người.

Có ba vấn đề nổi bật:

- Quan hệ giữa cái môi trường tự nhiên phóng xạ và cái sinh học trong quá trình tiến hóa con người (nguồn gốc sinh học).
- Quan hệ giữa cái sinh học và cái xã hội (nguồn gốc xã hội).
- Quan hệ giữa tiệm tiến và nhảy vọt, đột bến trong quá trình xuất hiện con người và loài người.

Khi chúng ta đã biết là trước con người lao động đã xuất hiện dạng con người sinh học từ 1,5-2 triệu năm. Và cũng biết rằng, cái thời điển xuất hiện tổ tiên con người và con người không trung hợp với sự thay đổi lớn về khí hậu trên trái đất. Đòng thời, khoa học di truyền vạch ra cơ chế quyết định sự bến đổi các loài, sư đột biến gen, sự thay đổi nhiễm sắc thể, chủ yếu do các hiện tượng bức xạ gây ra. Khoa học di truyền khẳng định là lao động không thể tạo ra sự thay đổi trong bản chất các yếu tố sinh học, không được ghi lại trong gen để di truyền… rồi lại phát hiện được vùng có người hóa thạch ở Nam - Đông Phi có môi trường bức xạ lớn. Sức tác động mức xạ của mặt trời ở các thời điểm quả đất đổi cực địa từ, lại trùng hợp về mặt thời điểm trong sự biến đổi của tổ tiên con người và loài người…

Những điều kể trên khẳng định rằng, sự xuất hiện con người về mặt sinh học không phải là sự thích nghi dần dần với môi trường bên ngoài, hoặc do lao động, hoặc do ăn thịt, mà do tác động bức xạ tạo ra đột biến thể nhiễm sắc là hoàn toàn khoa học. Môi trường bức xạ cao xảy ra nhanh chóng, gây nên sự thay đổi bên trong của cơ cấu sinh học, và chính cái đó mới quy định tính chất và hình dạng bên ngoài của cơ thể. Những tác động mà không gây ra được sự đột biến như vậy thì không có loài mới. Cơ thể vượn người là cơ sở, có khả năng thành cơ thể người. Song ở một thời điểm nào đó, có những tác nhân bên ngoài (trong trường hợp này là bức xạ nguyên tử) đã có vai trò quyết định làm thay đổi loài này sang loài khác.

Rõ ràng đã có sự thay đổi trong cơ cấu sinh học phải do yếu tố tự nhiên quyết định là chính, chứ không phải yếu tố xã hội.

Sự xuất hiện một thể sinh học mới (não lớn, đi thẳng, và các thay đổi khác) cụ thể ở đây là thể sinh học người như thế mới hợp quy luật.

Quan điểm cho rằng, sự tiến hóa về não người từ 800cm3-1000cm3 - 1200cm3 - 1300cm3, là do quy luật suy nghĩ hay lao động là không đúng, mà thực ra là phải do thay đổi cấu trúc di truyền mang lại. Không có bằng chứng để nói rằng, do lao động trí óc hay chân tay nhiều thì óc - đại não phát triển.

1- Vậy thì vai trò của lao động đối với cái sinh học, cái tự nhiên của con người như thế nào?

Trước hết, khẳng định rằng lao động và hoạt động xã hội không quyết định các di truyền sinh học người, mà chủ yếu là quyết định và tạo ra tính người, tạo ra bản chất xã hội của con người, tạc vào cái cơ thể tự nhiên của con người, cái bản tính xã hội đó. Và trên một mực độ nhất định, làm cho sự phát triển sinh học ấy được hoàn thiện, phát triển trên cái vốn có của nó. Ví dụ, lao động làm cho con người nhanh nhẹn, cơ bắp nổi lên, bàn tay mềm dẻo hơn, con mắc phân biệt được màu sắc, đường nét tốt hơn, các giác quan phát triển hơn, theo định hường xã hội. Không thể nó rằng con người xã hội là do đột biến sinh học mà có (tức là thuần tuý thay đổi về sinh học). Ở đây không đơn thuần là tăng lên các tập tính động vật, mà là sự đột biến về chất, khác về chất, qua một tác nhân khác. Sự thay đổi sinh học đã là cơ sở tự nhiên cho tiến hóa xã hội như chính bản thân giới tự nhiên vậy.

Ý thức xuất hiện do là yếu tố xã hội, do lao động và các yếu tố xã hội khác quyết định. Song sự xuất hiện bộ óc người có đại não lớn với ít nhất là 15 tỷ tế bào thần kinh là cơ sở sinh học cho sự xuất hiện ý thức, như một nguồn gốc của nó.

Thực ra sự khôn ngoan của một số động vật bậc cao là tiến ý thức của con người. Cơ chế sinh học người trong bộ não đã tạo ra hình thức phản ánh, xử lý thông tin nhất định. Song sự hoạt động xử lý thông tin, sự phản ánh tiền ý thức đã có bước nhảy vọt sang trình độ khác hoàn toàn về chất. Đó là do có hoạt động chế tạo công cụ có hệ thống cùng với sự xuất hiện ngôn ngữ trừu tượng, hệ thống tín hiệu thứ hai. Và cũng nhờ lao động mà ý thức con người có thể năm được quy luật của thế giới vật chất, điều mà ngay hắc tinh tinh khôn ngoan cũng không bao giờ có được.

Trong thực tế, hắc tinh tinh không phải là tổ tiên của con nười mà chỉ là bà con một nhánh song song nhưng từ tập tính và cơ cấu quần xã hắc tinh tinh xũng có thể đoán được cơ cấu quần xã và tập tính của tổ tiên con người. Do đó, có thể nói rằng, tập tính cơ cấu quần xã của tổ tiên con người (dòng Ostralopitec) là một nguồn gốc tự nhiên của con người và loài người. Nguồn gốc thứ hai là nguồn gốc cơ cấu sinh học di truyền đột biến, nguồn gốc này có ý nghĩa trực tiếp và quyết định. Song nguồn gốc xã hội tức là lao động có hệ thống của con người mới quyết định sự xuất hiện con người thật sự.

Sự phát triển tất yếu tự nhiên ấy là có quy luật, là cầu nối từ cái tự nhiên đến cái xã hội. Rõ ràng cơ cấu sinh học người và nhu cầu tồn tại của cơ thể đó là nhân tố làm xuất hiện lao động có hệ thống, có mục đích, chuyển từ lao động giản đơn, tự phát của động vật bậc cao lên lao động loài người. Đó là quan niệm hệ nhân - quả nội tại của sự phát triển.

2- Như thế, quá trình tiến hóa từ động vật bậc cao lên loài người rất biện chứng, không những theo ý nghĩa như đã trình bày ở trên mà còn theo ý nghĩa: đồng thời với những tiệm tiến, có những đột biến sinh ra loài mới, giống mới, có sự đứt đoạn trãi qua các bước trung gian, vừa mang tính tất yếu vừa có tính ngẫu nhiên.

Quá trình tiến hóa đó có lược đồ sau đây:

Từ một loài vượn (tổ tiên động vật của con người) sinh ra (do dột bến nhiễm sắc thể) hai nhánh: 1) tổ tiên con người, người vượn Grolia; và 2) hắc tinh tinh… nghĩa là, vẫn là loài vật. Trong nhánh thứ nhất, từ tổ tiên trực tiếp (Ostralopitec) của con người một số thành con người và còn lại là người vượn. Người vượn dần dần bị diệt chủng, chỉ có con người là tồn tại.

Trong loài người cũng có nhiều loại và nhiều nấc: ví dụ, đầu tiên là người khéo léo (người thực thụ đầu tiên), rồi người đi thẳng nêandectan, đến người hiện đại. Nhưng rồi người sơ khai cũng được thay bằng người hiện đại (cách đây 40 ngàn năm), ở đây cũng có những biến nhất định.

Tổ tiên con người Ostralopitec - là những cá thể người như chúng ta vậy. Song chỉ có một số trong họ là thành người thực thụ (người sơ khai), còn lại chưa phải là người. Họ cũng như tổ tiên con người xuất hiện đầu tiên ở Châu Phi, sau đó di cư sang các vùng khác của thế giới (theo Machusin).

Lẽ như nhiên cũng như tác giả đã nói, còn những vần đề về nguồn gốc con người chưa rõ. Ví dụ vấn đề thời điểm xuất hiện tổ tiên của con người, ở nấc thang đầu tiên của nó hoặc vấn đề tại sao ở thời con người khéo léo đã tồn tại những mớ tổ tiên đi thẳng, là mâu thuẫn với quy luật cơ bản của sinh học là không có những loài song hành…

Điều đó chưa rõ tại sao. Nhận thức về nguồn gốc loài người cũng không dừng lại ở đây, có thể có niên đại mới và giải thích rõ thêm. Song những tính quy luật làm xuất hiện loài người đã được phát hiện về đại thể.

Nhưng tác phẩm "Nguồn gốc loài người" của Machusin đã mang đến một thông tin mới, hiện đại và phong phú, gợi ra nhiều suy nghĩ về nguồn gốc loài người và sự tiến hóa của loài người. Tất nhiên, trên lĩnh vực này vẫn còn nhiều điều bỏ ngỏ mà khoa học sẽ còn tiếp tục phát hiện thêm những cứ liệu mới. Mỗi lần chúng ta hiểu rõ thêm nguồn gốc tiến hóa của loài người, là mỗi lần có thêm điều kiện để hiểu bản chất và động lực hoạt động, phát triển của con người.

IV- Mấy thông tin cập nhật làm rõ thêm vấn đề đang bàn

Bài viết giới thiệu trên đây được viết vào khoảng năm 1990, và đã đăng trên tạp chí Nghiên cứu lý luận, thuộc Học viện quốc gia Hồ Chí Minh, sau đó, tính đến nay gần 20 năm. Bài này cũng đăng trong sách Phương pháp luận của duy vật nhân văncủa tác giả (2005). Trong thời gian này, tôi có đọc một số tài liệu nói về nguồn gốc loài người với các giả thuyết và thông tin khác nhau, vậy xin có vài bổ sung, tham khảo làm rõ hơn sau đây..

- Có một giả thuyết là con người trên trái đất là có một nguồn gốc một phần từ con người ngoài vũ trụ đến lai với người trên trái đất, tạo nên nhiều tộc loài người khác nhau. Tuy bằng phương pháp gì thì chưa biết. Bằng chứng một số vùng ở Nam Mỹ cho biết ở thành phố bằng đá, ống thải nước cũng bằng đá, và ở đó có rất nhiều tượng đầu người bằng đá mà không cái nào giống cái nào, như đại biểu cho nhiều tộc người nhưng có những cái không giống với người trái đất. Ở vùng này còn có những đường băng lớn mà theo các nhà khảo cổ cho biết là như sân bay vũ trụ vậy... Ở đây cũng có cả tảng đá lớn hướng về phía mặt trời và có những ký hiệu toán học khó hiểu, như là một địa chỉ đón du thuyền người ngoài hành tinh vậy. Người ta cho biết từ biển nhìn vào là cách hàng chục cây số vẫn nhìn thấy bằng đá mang tính ký hiệu này. Rồi những ký hiệu hình học kỳ lạ trong kim tự tháp Ai Cập và không chỉ ở Ai Cập. Người ta cũng từng thu được tấm bản đồ cách đây 1 vạn năm ở vùng Tây Tạng (hiện còn lưu ở bảo tàng nước Anh), bản đồ này đã thể hiện các châu lục, đại dương chính xác như bây giờ chụp từ các máy bay hay tàu vũ trụ, mà ở thời điểm dí con người chưa có máy bay thì làm sao có thể vẽ được như vậy . Ở bản đồ này, người ta còn kiểm tra thấy những đảo lúc đó bây giờ đã chìm xuống đại dương bao nhiều chục mét như thế nào. Rồi Lịch tính năm của người Maia cổ xưa mà chính xác giống như lịch hiện đại bây giờ (về cách tính thời gian trong một năm). Rồi cũng ở Tây Tạng, đang tồn tại những con người khổng lồ người Xomachi, về cấu tạo sinh học cao lớn hơn chúng ta gấp 10 lần, có năng lực thần bí của những đạo sĩ và hiện đang ở trạng thái nhập thiền để bảo tồn quỹ gen ra sao (Theo Erơnơ Munđasep- Liên Xô cũ xem thêm Đỗ Thanh Hải, Hiệu ứng sinh học, Nxb. Tổng hợp TPHCM, 2005, tr 78-79). Hoặc cũng có tài liệu về Bí ẩn các nền văn minh, cho biết là đã thấy những vết “dấu chân khổng lồ” như dáng chân người in hằn sâu trên đá ở một dãy núi nọ cách đây khoảng 500 (?) triệu năm, không biết chính xác không nhưng thật là khó hiểu.. Rồi những thông tin mới và ý kiến khác nhau về nơi khởi nguyên nguồn gốc loài ngườiqua trao đổi ý kiến của Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường…(trên Chungta.com) hiện nay..

Qua đây người ta nêu ra giả thuyết rằng, trên trái đất đã trải qua nhiều nền văn minh, có nền văn minh cao hơn chúng ta nay nhưng vì lý do gì đó (như đại hồng thủy đã mô tả trong Kinh thánh, hay sự biến mất đầy bí ẩn của người Maia, chẳng hạn) mà đã biến mất và những nhóm người sống sót lại làm lại nền văn minh, như ta biết đến ngày nay..Và cũng có thể người ngoài hành tinh đã có lúc mang văn minh của họ đến trái đất, để lại dấu ấn ở đây. Những sản phẩm của nền văn minh đã xa cũ mất hay bí ẩn ấy tuy được tiếp nối những thất truyền nguồn gốc, như Kinh dịch- Âm- dương- Ngũ hành, mà có người đã nêu giả thuyết. Hay tấm bản đồ địa lý Tây Tạng cách đây 1 vạn năm đã nêu…

- Những nghiên cứu gần đây cũng cho biết là cá voi cũng có ngôn ngữ và chúng giao tiếp với nhau, vui đùa, ca hát với nhau, ít nhiều mang tính “văn hóa”. Hay nhiều động vật bậc cao, nhất là hắc tinh tinh cũng biết chế tạo công cụ giản đơn., hay có chú vượn nuôi trong vườn thú nọ mà có hành động tính toán “kế hoạch trước” để hành động như nhặt, chất các hòn đá lại một chỗ để khi cần thì tấn công đối phương cho nhanh và dễ dàng hơn. Nghĩa là chúng đã có tiền ý thức hay một cái gì đó (năng lực thông tin) tuy rất thấp nhưng giông giống với ý thức ở con người!

Hoặc có những nghiên cứu cho rằng, lao động tạo nên ngôn ngữ và tư duy là lao động nào (lao động bản năng hay lao động tự giác), và có phải thật sự như vậy không, vì khi lao động là đã có giao tiếp ngôn ngữ và ý thức rồi? Sự nghiên cứu, tranh luận về vấn đề này như thế nào?

Theo Tiến sĩ. Nguyễn Huy Hoàng, trong bài viết “Chân lý là đất không có lối vào” (Tạp chí triết học, Chungta.com), cho biết như sau:

Từ lâu nay, trong các khoa học xã hội và nhân văn mácxít, mọi người đều xem lao động là nét đặc thù để phân biệt người với động vật. Hơn nữa, lao động còn là nguồn gốc dẫn đến sự xuất hiện ý thức và ngôn ngữ. Nhưng, theo Porshnev, lao động với tính cách điểm đặc thù để phân biệt người với động vật phải là lao động người thực sự, nghĩa là cùng những thao tác với công cụ trong nó đã phải có yếu tố của ngôn ngữ và ý thức rồi. Vậy, nói lao động của con người sinh ra ý thức và ngôn ngữ liệu có phải đã rơi vào lý luận luẩn quẩn không? Để thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn đó, Porshnev quay trở về khám phá ý nghĩa trong những luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về “lao động bản năng” và muốn chỉ ra rằng, trong sự phát triển của mình, “lao động bản năng” đã chuyển hoá thành lao động của con người như thế nào, trở thành hoạt động người có mục đích ra sao. Theo Porshnev, cả dáng đi đứng thẳng, cả việc chế tác những công cụ giản đơn vẫn chưa phải là những dấu hiệu đặc trưng của con người. Đã có không ít những vượn người biết chế tác ra những công cụ giản đơn, thậm chí còn biết dùng lửa và có dáng đi đứng thẳng, nhưng chúng không có tiếng nói, bởi vậy, chúng không được gọi là người và đời sống của chúng không thể được gọi là xã hội. Do đó, câu hỏi về sự sinh thành loài người lại được quy về việc giải thích quá trình nảy sinh tiếng nói. Trên cơ sở một lượng lớn những tài liệu về sinh lý học của hoạt động thần kinh cao cấp, Porshnev đã phân tích cơ chế của hệ thống thần kinh làm tiền đề cho sự nảy sinh cơ chế sinh lý thần kinh của hệ thống tín hiệu thứ hai. Theo quan điểm lịch sử, ông nhấn mạnh rằng, các phương pháp của khoa học hiện thời đã cho phép chúng ta khai quật lên những lớp tiến hoá chìm sâu trong tâm lý, trong tư duy, trong ngôn ngữ của người hiện đại. Do vậy, đã đến lúc những khám phá trong khảo cổ học, nhân chủng học, ngôn ngữ học cùng những bộ môn khoa học cụ thể khác kiến tạo nền tảng cho những kết luận có tính khái quát hoá cao hơn.

Với Porshnev, việc xem xét những cơ sở sinh lý của tiền đề sinh học cho hoạt động ngôn ngữ gắn bó chặt chẽ với việc nghiên cứu các hình thức lao động bản năng. Sự chuyển hoá từ lao động bản năng đến lao động vốn có ở người đòi hỏi phải phân tích vai trò của ngôn ngữ và sự giao tiếp xã hội. Từ đó, Porshnev đi tới kết luận cho rằng, lao động có mục đích, có ý thức đòi hỏi phải có ba yếu tố nền tảng: sự chế tác các công cụ, ngôn ngữ và tính xã hội. Ba yếu tố này gắn kết chặt chẽ với nhau, quy định lẫn nhau và do vậy, phải khẳng định chúng nảy sinh đồng thời. Cần lưu ý rằng, trong tiến trình nghiên cứu, dù đôi khi Porshnev có đề cập đến nội dung hiện vật của tư duy nhằm tìm kiếm cội nguồn xã hội của nó, nhưng sự đề cập đó chỉ mang tính chất chi tiết và bổ trợ. Công trình của Porshnev đã làm dấy lên những cuộc tranh luận lớn cho đến tận ngày nay, và trong lúc nhiều người đang lớn tiếng chỉ trích, cãi vã lẫn nhau thì không ít người lại lặng lẽ lên đường, vượt mọi cản trở để tìm kiếm lời giải cho câu hỏi đầy huyền bí của nhân loại: con người được hình thành như thế nào?

Còn GS. Trần Đức Thảo thì luận chứng không phải chỉ từ cơ chế sinh tâm lý mà tìm khâu trung gian lao động sản xuất thời công sản nguyên thủy để hiểu rõ sự xuất hiện ý thức và ngôn ngữ với ngôn ngữ bên trong của con người khác điệu bộ, ngôn ngữ bên ngoài như thế nào.

Tiến sĩ. Nguyễn Huy Hoàng lưu ý rằng, trong quan điểm của Porshnev về sự hình thành ngôn ngữ và ý thức, dù đôi khi ông có đề cập đến lao động công cụ và thế giới bên ngoài nhưng đó chỉ là những chi tiết, phụ chú, còn nói chung chúng bị chìm xuống để nổi lên bình diện giao tiếp. Cái bị chìm xuống ở Porshnev lại được nổi lên nhờ Trần Đức Thảo. Trong cái nhìn về cội nguồn ngôn ngữ và ý thức của Trần Đức Thảo, ta thấy có mối quan hệ biện chứng giữa tính chủ thể và tính khách thể, thế giới bên trong với thế giới bên ngoài, giữa hoạt động và quan hệ. C.Mác, trong Hệ tư tưởng Đức, cũng đã nhắc nhở chúng ta rằng, con người là một thực thể song phương. Bởi lẽ, sự hình thành và phát triển của con người nói chung, ý thức và ngôn ngữ nói riêng được thực hiện trong việc gián tiếp hoá cho nhau mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và con người với con người, giữa việc cải tạo tự nhiên bởi con người và cải tạo con người bởi chính con người. Từ hiện tượng học tới chủ nghĩa Mác, Trần Đức Thảo đã vượt lên để có một một cái nhìn sâu xa và độc đáo về cội nguồn của ý thức và ngôn ngữ.

Cũng theo Tiến sĩ. Nguyễn Huy Hoàng, sự tự phê phán của Trần Đức Thảo về việc lãng quên sự trung gian dẫn đến trộn lẫn hai hình thái ký hiệu học hoàn toàn khác nhau, các điệu bộ của con người chưa hình thành với ngôn ngữ thực sự, tức là thứ ngôn ngữ bằng lời nói, đặc thù của con người. Giờ đây, Trần Đức Thảo đã thấy rằng, chế độ chiếm hữu nguyên thuỷ là sự trung gian khởi nguồn trong đó hoàn thành sự quá độ lịch sử từ vật chất đến ý thức, từ tự nhiên đến tinh thần. “Trong những âm hưởng sâu sắc của việc mô tả hết sức sinh động và sống trải về chiếm hữu nguyên thuỷ, trong đó được xác định ý nghĩa nguyên gốc, vừa xã hội vừa cá nhân, vừa khách quan vừa chủ quan về quan hệ sản xuất là chiếm hữu cộng đồng, chúng ta có thể tìm thấy nội dung cơ bản của sự phát sinh ngôn ngữ và ý thức xuất phát từ nền sản xuất vật chất các thời đại nguyên thuỷ và các mối quan hệ vật chất mà nó bao hàm” (Trần Đức Thảo).

Như vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, soi sáng nguồn gốc loài người, những nhân tố tác động tới nó, là một cơ sở cơ để hiểu rõ hơn bản chất con người và sự tiến hóa của con người nói chung và ngày nay nói riêng, nhất là về mặt xã hội.

LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Cái nôi loài người nằm ở đâu?

    04/04/2009Đỗ Kiên CườngSau khi tạp chí Thế Giới Mới số 822, ngày 23-2-2009 đăng tải bài viết “Cái nôi loài người” trong chuyên mục Những bí ẩn của lịch sử, nhằm rộng đường dư luận, chungta.com đã phỏng vấn Đại tá Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường, Viện Khoa học Công nghệ Quân sự, Bộ Quốc phòng, về một số vấn đề liên quan. Xin giới thiệu bài phỏng vấn...
  • Thuyết tiến hóa của Darwin: 150 năm tuổi

    20/11/2008Phương HàCách đây 150 năm, nhân loại lần đầu tiên đã được biết tới thuyết tiến hóa muôn loài của nhà nghiên cứu sinh học người Anh Charles Darwin. Từ đó đến nay, không ít người đã muốn bác bỏ học thuyết này.
  • Oppenheimer và Chu thực sự nói gì?

    19/11/2008Đỗ Kiên CườngNgười Việt chúng ta có một truyền thống quí báu là vô cùng tôn kính tổ tiên. Các truyền thuyết Rồng Tiên, mười tám đời vua Hùng, Thánh Gióng, Sơn Tinh - Thủy Tinh, cùng những trang sử oanh liệt về Bạch Đằng, Chương Dương, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ… có lẽ đã thấm vào từng tế bào của mỗi con dân đất Việt. Vì thế chúng ta rất nhạy cảm với những thông tin về nguồn gốc con người và văn hóa Việt. Có lẽ đó là lý do Oppenheimer và Chu từng được cộng đồng người Việt, cả trong và ngoài nước, chào đón và thảo luận rất nồng nhiệt. Vậy Oppenheimer và Chu đã thực sự nói gì?
  • Trò chơi mới về sự sống

    06/07/2006Ngô Vũ (Nguồn: Science & Avenir)Phải chăng tự nhiên và sự sống là những cỗ máy phức tạp nhưng lại tuân theo những mệnh lệnh đơn giản? Đó là câu hỏi do Stephen Wolfram đặt ra. Theo nhà nghiên cứu này, các quy luật đó ông đưa ra có thể giải thích mọi sự vật hiện tượng, từ đơn giản nhất như các dòng chảy, sự phát triển của các tinh thể hoặc củacây cối đến những hiện tượng phức tạp và nhiều biến động như diễn biến trên thị trường chứng khoán...