Nghiên cứu con người Việt Nam qua các trước tác của Nguyễn Văn Huyên

09:49 SA @ Chủ Nhật - 05 Tháng Ba, 2006

1. Nguyễn Văn Huyên là nhà nghiên cứu văn học dân gian, nhà dân tộc học, nhà xã hội học, nhà văn hóa học.

Tất cả các khoa học đó mà Nguyễn Văn Huyên đã có đóng góp đáng kể, đáng trân trọng, học tập thừa kế và phát triển, song cho đến cùng đều nói trên conngười- chủ thể của văn hóa, văn minh, sáng tạo ra lịch sử. Qua các công trình " Toàn tập" này tác giả đều muốn nói lên, có thể ít nhiều, nông sâu khác nhau, trực diện hay suy đoán, cụ thể hay khái quát, tính cách, tâm hồn, tâm lý (tâm thức), đời sống tinh thần, đời sống tâm linh...của người Việt Nam. Vì vậy chúng tôi muốn tách rút từ các công trình của ông một chuyên mục "Nghiên cứu con người Việt Nam". Hơn nữa, như mục tiếp theo sẽ trình bày về sự đóng góp to lớn của Nguyễn Văn Huyên đối với nền giáo dục và khoa học giáo dục của nước Việt Nam độc lập, ông đã đề cập nhiều đến vấn đề con người, nhân cách con người và cách hình thành, phát triển nhân cách con người thế hệ trẻ Việt Nam. Từ đó chúng tôi càng cảm thấy có nhu cầu phải trình bày ở mục này ở đây để các bạn tham khảo, cùng suy nghĩ tiếp nối dòng suy nghĩ từ Nguyễn Văn Huyên và các nhà văn hóa khác của chúng ta, gópgió thành bão, mỗi người một chút góp phần dựng nên và phát triển khoa học về con người ở nước ta.

Rải rác ở nhiều bài trong "Toàn tập” này chúng ta có thể tìm thấy ý tưởng của tác giả nghiên cứu về con người Việt Nam, nhưng tập trung hơn cả trong tác phẩm lớn "Văn minh Việt Nam": Con người - chủ thể của văn hóa, văn minh. Bước đầu tìm hiểu vấn đề nàytrong "Toàn tập" này, chúng tôi sơ bộ nêu một số điều sau đây.

2. Về phương pháp tiếp cận, Nguyễn Văn Huyên đã chịu ảnh hưởng rất nhiều từ các thầy học của mình, trong đó nổi bật là Lêvy Bơ run (1857- 1939). Đọc kỹ bài ông viết về "Lê vy Bơ run: nhà tư tưởng lớn", thấy rõ về học thuật ông chịu ảnh hưởng của vị giáo sư - nhà dân tộc học, tâm lý học, triết học nổi tiếng thế giới từ thời đó tới thời nay. Ông cũng đánh giá cao nhân sinh quan của nhà tư tưởng.

Qua đọc tác phẩm ta có thể cảm nhận thấy tác giả tâm đắc với định luật tham giavà nguyênlý bí hiểmcủa Lê vy Bơ run...tham gia vào nỗ lực tư duy con người để có thể hiểu được thế giới bằng khoa học và triết học, sự đồng cảm với nguyên lý bí hiểm của các sự vật bằng cách chiêm ngưỡng thiên nhiên... "Đó là phương pháp tiếp cận tâm lý học dân tộc"Nguyễn Văn Huyên đã mô tả hết sức tinh vi, tỷ mỷ một ngôi đình, một lễ hội, một cái nhà, một bộ quần áo... đúng là như tham gia tiếp nối tư duy của loài người, của dân tộc, đi sâu vào những bí hiểm ngóc ngách, như ngôn từ ngày nay thường nói, văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể như là thiên nhiên thứ hai - thiên nhiên do con người sáng tạo ra - để hiểu và chiêm ngưỡng cái tinh thần, tâm hồn, tâm lý của con người. Có thể coi ông là người mở đầu cho ngành tâm lý học dân tộc ở nước ta.

Nguyễn Văn Huyên rất chú ý tới nghiên cứu của Lê vy Bơ run về tư duy người xưa, "Trong tâm thức (Tâm lý- PMH. chú thích) người nguyên thủy, thế giới hữu hình và thế giới vô hình chỉ là một. Vì vậy, sự trao đổi qua lại giữa cái mà chúng ta gọi là hiện thực cảm nhận được với những sức mạnh thần bí là thường xuyên. Nhưng có lẽ không ở đâu sự giao cảm ấy diễn ra tức thời và trọn vẹn bằng trong chiêm bao... Linh hồn thoát khỏi thể xác trong chốc lát. Đôi khi bay đi rất xa. Nó trò chuyện với linh hồn những người đã chết". Với phương pháp tiếp cận đó Tác giả "Toàn tập" này đã đi đến với các chuyện cổ tích, phong tục lễ bái thờ cúng... giúp chúng ta hiểu tâm lý, đời sống tinh thần, quan niệm triết lý, thậm chí cả hiện tượng mà ta gọi là tâm linh - một vấn đề thời sự tự nhiên lại nổi lên trong thời đại khoa học tiến như vũ bão ngày nay. Lê vy Bơ run đã chỉ rõ:

Hoạt động tinh thần của người nguyên thuỷHoạt động tinh thần của người ngày nay
- Thần bí
- Tập thể
- Tiền logic (không thực nghiệm)
- Lý tính
- Cá thể
- Logic thực nghiệm

Nhưng sự phát triển tâm lý, thế giới tinh thần nói chung rất phức tạp, khó mà định ranh giới rạch ròi giữa cái "Nguyên thủy" đời xưa với cái "Hiện đại" đời nay, "Cái xưa" ở trong "Cái nay", ẩn trong "Cái nay", như Các Mác đã nhận xét.

Qua các công trình nghiên cứu trình bày trong “Toàn tập" này với các chất liệu hết sức phong phú và phân tích vô cùng sâu sắc về văn học dân gian, dân tộc học, tác giả đang cho chúng ta một cách nhìn, một phương pháp tiếp cận và những tri thức để mỗi người suy ngẫm và hiểu thêm về con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Chẳng hạn, từ các hình thức tín ngưỡng cổ xưa, như thờ một cây đa, một hòn núi cho đến tục thờ thành hoàng ở các đình làng, Nguyễn Văn Huyên đi đến các kết luận về nội dung của đời sống tinh thần đạo đức: nhân dân thờ cúng như vậy là muốn nêu lên một mẫu mực đạo đức, để nhớ về cội nguồn, nhớ ơn người trước, cầu mong một sự che chở, hoặc qua đó mỗi người coi lại chính mình (cao hơn dẫn tới phạm trù lương tâm), răn đe kẻ làm bậy... Xưa và nay, truyền thống và hiện đại, quá khứ và hiện tại quện vào nhau thành một dòng văn hóa và trong nhiều trường hợp lý tính đan xen thần bí, cá thể quện với tập thể, logic cùng tồn tại với tiền logic (có khi có cả phi logic, phản logic), thực nghiệm và không thực nghiệm, lý trí và trực giác, ý thức và vô thức... cũng cùng hiện hữu trong đời sống tinh thần của con người.

3. Trong tác phẩm "Văn minh Việt Nam" (1944) in trong Toàn tập này cùng với "Việt Nam văn hóa sử cương" (1938) của Đào Duy Anh là hai tác phẩm đầu tiên nói rõ trong văn hóa, văn minh của thế giới này có nền văn hóa Việt Nam, nền văn minh Việt Nam. Nghiên cứu con người Việt Nam Nguyễn Văn Huyên mở đầu tác phẩm bằng các số liệu và nhận xét về cơ thể con người Việt Namđược mô tả: Có tầm vóc nhỏ bé, người lớn trung bình cao l,595m (nam) và 1,53m (nữ) (bây giờ, 1991- 1995 , theo số liệu của KX - 07"Con người là mục tiêu và động lực của phát triển kinh tế xã hội", người lớn trung bình cao 163cm + 4,5), trọng lượng thân thể trung bình 45kg (bây giờ, theo KX-07 là 51kg5 + 5,3), sọ thiếu thốn tệ 1233g (theo số liệu của Brôca, nhà thần kinh học người Pháp), đôi mắt hơi xếch về phía ngoài, mở to, đẹp, rất đen, rất hiền và rất diễn cảm nói chung, thân thể "Dưới vẻ nữ mềm mại, có khiếu về vận động cơ thể, người Việt nói chung cơ thể phát triển chậm tuổi dậy thì khá muộn và già đi nhanh chóng, bắt đầu từ tuổi 40, 50 tuổi đã già lụ khụ Xem vậy mới thấy ngày nay sự phát triển cơ thể con người Việt Nam nói chung đã tiến bộ nhiều. Tuy nhiên, về mặt này, cũng có nhiều vấn đề đang đặt ra, từ cải tạo nòi giống, chống suy dinh dưỡng đến nâng cao thể lực để đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và đòi hỏi còn phải chăm sóc con người nhiều hơn nữa.

4. Về tính cách Việt nam

Tác giả đã khẳng định mặt tốt trong tính cách Việt Nam như:

a/Một dân tộc cần cù nhẫn nại. Ông viết:"...chẳng thấy nơi nào trên thế giới một dân tộc cần cù như vậy". Khả năng chịu dựng của họ rất cao, ít kêu ca về nỗi đau đớn của mình.

b/ Tư duy rất thực tế. người nước ta có "Một đầu óc thực tế có khi đến lạ lùng, quyết định chiều hướng tâm hồn của người nông dân".

c/ Nếp nghĩ nặng về cảm tình. người Việt có chất nghệ sĩ nhiều hơn khoa học. Họ nhạy cảm hơn là có lý tính".

d/ Dũng cảm: sẵn sàng hy sinh, rất dũng cảm cho những sự nghiệp lớn. Ông viết: Nhân dân Việt Nam "ghét chiến tranh và khinh bỉ các biểu hiện của bạo lực. Nhưng họ có khả năng kháng cự lâu dài, trong những điều kiện thiếu thốn tệ hại nhất, chống lại những lực lượng mạnh hơn họ về số lượng và chất lượng".

e/ Thông minh, tế nhị hài hước. "Dưới vẻ ngoài ngây thơ chất phác, người Việt rất khôn. Tính cách họ nhẹ nhàng, linh hoạt, thích diễu cợt".

g/ Hiền lành, thích yên ổn, phục thiện.

f/ Dân tộc Việt Nam ưa chuộng độc lập, tự do: thù ghét mọi sự gò bó và mọi quy tắc quá chặt chẽ.

j/ Trong tính cách Việt Nam ý thức dân tộcrất mạnh, ý thức thống nhất dân tộc luôn luôn tồn tại trong tâm tư nhân dân Việt Nam.

Hồi đó, trước 1945, như chúng ta đều biết, bọn thực dân và bọn quan lại cam tâm làm nô lệ cho bọn thực dân thường hay miệt thị người bản xứ, và do đó hay có nhận xét nặng nề về tính cách của dân tộc chúng ta, như chê bai đầu óc người Việt thiếu tư duy suy luận, lười biếng suy nghĩ… thì Nguyễn Văn Huyên đã cảnh cáo họ: " Nên tránh khái quát quá mức... Khiến cho một cái vốn chẳng ra gì chẳng mấy chốc bị phóng lên thành một cái to vô tận". Hơn thế nữa, ông còn mạnh dạn nêu lên những ưu việt trong tính cách Việt Nam – chính đó là một yếu tố quan trọng bảo đảm sự trường tồn của dân tộc Việt Nam, đó là , sức mạnh, là nội lực của dân tộc ta. Đồng thời ông cũng nêu ra một số mặt xấu trong tính cách người Việt, như tính tự ái và bệnh sĩ diện. Ông đặc biệt lênán một số tật xấu do lối học cũ kỹ: nhồi nhét kiến thức, thui chột tư duy, "học nhiều kinh sách chất đầy trí nhớ, phần lớn chẳng nghĩ đến sự trao dồi trí tuệ nữa". Ông đặc biệt lên án đa số các trí thức chỉ mong ước "nghề làm quan là con đường vạch sẵn" không đòi hỏi nhiều cố gắng độc đáo, mà đem đến nhiều điều vinh hiển nhất". Cuộc đời ông đã thể hiện cụ thể nhận định của ông: trước 1945 đã từ chối con đườngquan trường, để đi dạy học và nghiên cứu khoa học. Sau cách mạng tháng tám ông lại sẵn sàng mang hết tâm huyết và năng lực của mình phụng sự nhân dân dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Qua công trình nghiên cứu: “Vấnđề nông dân ở Bắc Kỳ" (1939), bằng các số liệu điều tra hết sức khách quan, cụ thể, tỉ mỉ ông đã nói lên một cách hết sức thông cảm với đời sống cực khổ, nghèo đói, điều kiện lao động rất khắc nghiệt của người nông dân. Hơn thế nữa, họ còn chịu biết bao tệ nạn xã hội như cờ bạc và các tệ tục mê tín, bị giam cầm 'trong chính sách ngu dân. Từ đó dẫn đến một số hệ quả nặng nề trong tính cách, tâm lý, như mù chữ, dốt nát, thủ cựu, đa nghi, mê tín. Ông đì đến kết luận phải thay đổi tâm lý nông dân,phải làm cho họ giác ngộ về quyền lợi thật sự của họ, và ông rất đề cao việc giáo dục nông dân. Cuối cùng ông kết luận: " Vì thế, sự nghiệp chủ yếu, việc làm cơ bản, mà nếu không có thì sẽ chẳng xây dựng được gì vững chắc, chính là việc giáo dục nông dân” -công việc Đảng CSVN ddã làm từ khi thành lập cho đến ngày nay và từ đó đã góp phần vào thắng lợi của cách mạng và kháng chiến.

5. Vấn đềtâm linh.

Về vấn đề này tác giả "Toàn tập" có đề cập đến một cách toàn diện, khibàn về ý thức tôn giáo (Văn minh Việt Nam, 1944). Sau khi điểm qua các đạo, như đạo Nho, đạo Lão, Đạo phật, đạo Thiên chúa, rồi vật linh giáo và thờ thế giới tự nhiên, ông viết: " Trong đám hỗn độn đó có điều tâm linh đó…". Đó là kết luận tác giá rút ra từ các công trình nghiên cứu cụ thể về lễ xá tội vong nhân, tết thanh minh, tục thờ cúng các vị thần tiên ở Việt Nam...

Quan niệm coi trọng tâm lý con người có tâm linh xuất phát từ triết lý trong trời - đất (vũ trụ ) này, trong toàn bộ thiên nhiên này tất cả là dòng khí. Con người và cả thiên nhiên nữa đều có hồn bay trong dòng khí đó, và hôm nay trong con người, và ngày mai ở trong không trung khi người chết đi. Người sống và hồn của nó ở thế giới bên này, còn hồn của người chết cùng người đó tồn tại ở thế giới bên kia. Hồn này có thể hòa trong khí bay lơ lửng trong bầu trời mênh mông và các hồn của người này và của một người nào khác có thể gặp nhau. Có người cho rằng trong tôn giáo thờ cúng tổ tiên cũng như các lễ thần thánh khác người ta tin là hồn của mình được gặp gỡ, trực tiếp hay gián tiếp, các hồn của người đã khuất hay của thánh thần, chúa, phật… Tác giả viết: “Sự có mặt của tổ tiên giữa những người sống được quan niệmlà có thật", "việc thờ tổ tiên...là một sợi dây vững chắc ràng buộc mọi người trong gia đình, còn sống hay đã chết, với nhau, qua các ngày giỗ tết người sống tăng cường mối liên hệ ràng buộc họ với người thân của mình đã khuất. "Đó chính là tâm linh".Nguyễn Văn Huyên không đưa ra một định nghĩa nào về tâm linh.Cũng không ngờ ngày nay, những ngày cuối thế kỷ, người ta lại nói nhiều đến tâm linh đến thế!? Có thể coi đó là mộtkhái niệm tâm lý nói lên sự gắn kết ba phạm trù thời gian: Quá khứ - hiện tại - tương lai với nhau. Mà chỉ ở con người mới có các phạm trù thời gian và sự gắn kết chúng lại với nhau như thế. Có sự gặp gỡ thật không?

Gặp gỡ gắn kết như thế nào? Thần giao cách cảm hay các luồng điện hiện lên trong trường sinh học? Hay là hồn? Hay đơn giản chỉ là người sống hướng tất cả ý nghĩ về người chết? Vấn đề cực kỳ phức tạp và tế nhị. Điều có thể khẳng định được là phải tôn trọng, và không những chỉ tôn trọng, còn phải giáo dục khuyến khích ý niệm hướng về cội nguồn, nhớ tới tổ tiên, biết ơn công lao người đi trước... và phải lên án các hiện tượng mê tín, mà nhất là các hiện tượng tiêu cực lợi dụng các tình cảm tâm lý tết đẹp ở con người, trong đó có tâm linh, để làm ăn kiếm chác theo kiểu "Mua thần bán thánh". Vấn đề phải tiếp tụcnghiên cứu và phải tổ chức tết đời sống văn hóa trong cộng đồng, gia đình và từng người, như Nghị quyết kỳ họp lần thứ V (tháng 6/1998) của BCH TW Đảng CSVN khóa VIII đã khẳng định.

6. Con người trong cơ cấu giai tầng xã hộiđược Nguyễn Văn Huyên rất quan tâm. Nói khái quát, tác giả "Toàn tập" này đã đặt ra vấn đề là muốn hiểu con người Việt Nam phải đặt nó trong các cơ cấu xã hội rất đặc thù như nhà, làng, nước. Cơ cấu này của xã hội là một phát hiện lớn, rất có giá trị. Trong một số công trình nghiên cứu khá công phu (như "Góp phần nghiên cứu một vị thành hoàng Việt Nam Lý Phục Nam (1938), "Văn minh Việt Nam" (1944)...). Ông đã mô tả tỉ mỉ "Cấu trúc xã hội" của một làng như làng Đắc Sở và Yên Sở, đàn ông được chia làm nhiều hạng khác nhau (tức là thời xưa phụ nữ đứng ngoài cấu trúc xã hội ?).Cụ thể ở làng Đắc Sở các hạng người được xếp từ trên xuống dưới như sau:

1/ Tư văn: Người có học vị, giáo viên.

2/ Chức dịch.

3/Quan viên: Chức vụ hành chính như lý trưởng (tương đương với trưởng thôn), chánh tổng (tương đương với Chủ tịch xã), trong hạng này có cả người có tiền mua một chức hành chính kể trên.

4/ Lão: Người già từ 55 tuổi trở lên và đã có lễ ở đình.

5/ Tuần đinh: Người khiêng kiệu, bưng rượu trong các ngày lễ (tương đương với tạp vụ).

Nhưng ở làng Yên Sở thì lại có cơ cấu xã hội theo thứtự như sau:

1/Lão: lão trung từ 60 - 69 tuổi, lão thượng lừ 70 tuổi trở lên.

2/ Kỳ mục: đại diện cho làngtrước chính quyền.

3/ Quan viên chính: cả người thực nhiệm và quan viên mua.

4/ Tư văn: người có học vị, giáo viên, sau khi có phẩm hàm rồi thì lên hạng quan viên chính ngồi chiếu chính ở đình.

5/Xã binh: cựu chiến binh đã có lễ cúng ở đình.

6/ Xã dân: Lý trưởng, phó lý.

7/ Quan viên tôn (cháu của quan viên) và quan viên mới.

8/ Lão trung và lão hạ (từ 55 tuổi trở lên).

9/Hạng phiên: Người được giao một việc công ích trong mộtthời gian.

10/ Hạng cuối: Tất cả những người còn lại, có thể nói là cùng đinh.

Trong tác phẩm “ Văn minh Việt Nam” tác giả khái quát tổ chức xã hội ở làng Việt Nam bao gồm các ngôi thứ của các giai tầng như sau:

1/Những người có phẩm hàm từ nhất phẩm đến cửu phẩm do nhà Vua phong.

2/Các ông già từ 60 tuổi trở lên,

3/ Kỳ mục là các nhân viên hành và chính: Phó lý, Lý trưởng, Phó tổng, Chánh tổng.

4/ Tư văn: Những người có bằng cấp học vấn.

5/ Hoàng đinh: các giai tầng còn lại.

Như thế là trong ý thức cổ xưa của người dân nước ta hết sức coi trọng giai tầng trí thức như trong dân gian thường nói "Nhất sĩ nhì nông". Nhưng trong ý thức xã hội chính thống thì thiên hẳn về đường quan lại. Và cả một nét chung là kính trọng người cao tuổi theo quan niệm "Kính lão đắc thọ" - đây là một truyền thống rất tốt đẹp.

Có một nhận xét cực kỳ quan trọng của Nguyễn Văn Huyên nêu bật vai trò mở đầu của nhà tâm lý học dân tộc và nhân học ở nước ta: "Làng là mộtnhân cách, nó có một tính cách riêng.Trong các việc công, Nhà nước chỉ biết tới làng chứ không phân biệt cá nhân".hành hoàng mà cả làng thờ liên kết tất cả mọi người trong cộng đồng "Thành mộtkhối, một thứ nhân cách đạo lý...". Trong xã hội cũ trừ ông Vua, còn mọi người bị lẫn vào với cộng đồng. Kết thúc thế kỷ này chúng ta đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, một trong tư tưởng chỉ đạo quan trọng là phải làm cho mỗi người đều thành người lao động có kỹ thuật sáng tạo và là đơn vị, là chủ thể của đội ngũ nhân lực, mỗi người là một nhân cách có đầy đủ tư cách của người công dân thấm đượm truyền thống dân tộc, phát huy mọi năng lực sáng tạo, bao dung, hợp tác cùng nhau, bảo đảm cho mỗi người phát triển tự do và xây dựng cộng đồng văn hóa.

Trân trọng kế thừa Đào Duy Anh và Nguyễn Văn Huyên, chúng ta cùng xây dựng và phát triển khoa học về con người và nguồn nhân lực ở nước ta.

Nguồn:
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Liệu bản chất con người có thay đổi theo thời gian không?

    19/07/2018Nhiều hệ tư tưởng đã đưa ra ba câu trả lời chính cho câu hỏi về tính bất biến hay không đổi của bản chất con người. Đầu tiên là quan điểm truyền thống cho rằng con người về cơ bản thì giống nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Theo quan điểm này, một loạt những đặc điểm về thể chất và trí tuệ tạo thành bản chất đặc trưng của con người không thay đổi và sẽ không thay đổi chừng nào con người vẫn là con người và không phải là loài sinh vật khác. ...
  • "Cái tôi" của người Việt Nam qua một giai đoạn phát triển

    08/06/2016Những nghiên cứu về “cái tôi”, “tôi - không tôi”, “tôi - chúng ta”, “tôi - tôi”, cũng như tính cộng đồng và tính cá nhân đã được tiến hành trong lĩnh vực tâm lý học, nhưng đây mới chỉ là bước đi đầu tiên. Bằng phương pháp phân tích các cứ liệu ngôn ngữ(*), tác giả đã chỉ ra “cái tôi” - sự tự ý thức của mình trong quan hệ với người xung quanh. Qua đó, chúng ta cũng hiểu thêm về nhân cách người Việt...
  • Quan niệm giáo dục “Tự Tân” của Phan Bội Châu

    28/10/2014TS Dương Thiệu TốngNhững từ tưởng và hoạt động giáo dục của cụ Phan Bộ Châui suy ngẫm về các vấn đề canh tân văn hóa giáo dục, canh tân xã hội đáng để chúng ta quan tâm đến...
  • Con người đi tìm chính bản thân mình

    15/12/2005Hà Huy KhoáiPhải chăng, để hiểu được chính bản thân mình, con người cần đến các máy tính biết tư duy. Tuy nhiên, chúng ta có thể lại phải đương đầu với một nghịch lí mới: máy tính cuối cùng sẽ làm sáng tỏ được cơ chế hoạt động của bộ não người, nhưng khả năng của bộ não người lại không đủ để hiểu được cơ chế đó!
  • Khoa học và tâm linh

    03/12/2005Nguyễn Khánh HảiNhững nhận thức của con người về thế giới xung quanh (vũ trụ, xã hội, v..v..) có thể phân thành hai loại: một loại có thể kiểm nghiệm, chứng minh bằng thực nghiệm, bằng lý trí, bằng lô gích, đó là loại gọi là thuộc lĩnh vực khoa học. Loại thứ hai chỉ có thể nhận thức được bằng trực giác của từng người chứ không thể chứng minh hai năm rõ mười được bằng thực nghiệm hoặc bằng lý trí các vấn đề tâm linh thuộc lĩnh vực này.
  • Vài nét về tình hình nghiên cứu vấn đề ý thức trong thời gian gần đây

    04/11/2005Phạm Kiều OanhHàng ngàn năm nay, vấn đề ý thức luôn là trung tâm chú ý của các nhà triết học. Từ nhiều thế kỷ trước công nguyên, các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đặt vấn đề nghiên cứu ý thức và giờ đây, đầu thế kỷ XXI, vấn đề ý thức vẫn luôn là điểm nóng mà xung quanh nó đã nổ ra biết bao cuộc tranh luận chưa ngã ngũ.
  • Ảnh hưởng triết học phương Tây trong quan niệm của Phan Bội Châu về con người

    22/10/2005Đỗ Thị Hoà HớiPhan Bội Châu là người có vị trí đặc biệt trong lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX. Ông được coi như chiêc cầu nối giữa truyền thông và hiện đại. Trong tác phẩm Nhân sinh Triết học, về nền học vấn của phương Đông, trên cơ sở những giá trị dân tộc, Phan Bội Châu đã biết cách tiếp nhận những giá trị hiện đại của triết học phương Tây, đặc biệt là vấn đề phương pháp để làm mới quan niệm về con người. Trong tác phẩm này, nghiên cứu về con người của ông được sử dụng qua các khái niệm nhân thể, nhân tính, nhân dục, nhân cách, nhân sự. Qua đó, ông khẳng định những giá trị truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam, đồng thời, kêu gọi nhân dân biết cách giữ lấy giá trị truyền thông cũng như tiếp nhận những giá trị mới phù hợp của thời đại để đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người...
  • Nghiên cứu con người Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước

    18/10/2005Hồ Sĩ QuýĐặt trong tương quan với những hiểu biết về các đối tượng khác, nhất là, đặt trong tương quan với những nhu cầu của sự phát triển đất nước, của sự phát triển bản thân con người trước thách thức của thế kỷ XXI, thì nhiệm vụ này thực ra là mới mẻ, cấp bách, và nói thật chính xác thì vấn đề con người trong xã hội hiện đại khác khá xa với vấn đề con người mà nhận thức truyền thống đã từng lý giải. Đây là điều cần lưu ý khi tiến hành những nghiên cứu về con người, đặc biệt là nghiên cứu lý luận...
  • Nhân học triết học hiện đại với vấn đề tồn tại người

    12/09/2005Đỗ Minh HợpTriết học thế kỷ XX đã trôi qua dưới khẩu hiệu "sự phồn vinh của nhân học". Những biến đổi trong cách tiếp cận nghiên cứu con người đã gắn liền với sự hình thành nhân học triết học. Con người trở thành trung tâm của vũ trụ, là chiếc chìa khoá để mở ra mọi vấn đề...
  • Tiếp cận tính toàn vẹn về con người và thế giới con người

    19/07/2005Đỗ HuyCon người và thế giới con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều nghành khoa học khác nhau, như tâm lý học, xã hội học, lịch sử, văn hoá học…Song, theo chúng tôi, chỉ có triết học và triết học Mácxít chư không phải triết học Cantơ, Hêgen, Phoiơbắc hay những trào lưu triết học sau này như chủ nghĩa Tômát mới, chủ nghĩa hiện sinh mới có cách giải quyết đúng đắn vấn đề này. Làm được điều này, các nhà triết học Mácxít đã dựa trên quan điểm thực tiễn vật chất - tinh thần, trong đó, tâm điểm của nó là lao động của con người.
  • Giữa con người và con vật khác nhau ở điểm nào?

    21/07/2005Từ thời Darwin, quan điểm ngược lại đã trở nên phổ biến, không chỉ giữa các nhà khoa học, mà cả trong các tầng lớp học thức nói chung. Học thuyết của Darwin về nguồn gốc con người cho rằng con người và loài vượn người đã thừa hưởng từ một dạng tổ tiên chung; và cùng với quan điểm về nguồn gốc tiến hóa của con người này là quan điểm cho rằng con người và những loài động vật có vú cao cấp chỉ khác nhau về mức độ. ...
  • Văn hoá dưới cái nhìn phân tâm học của Sigmund Freud

    09/07/2005Nguyễn Huy HoàngSigmund Freud là người đã hướng tới việc nghiên cứu cái vô thức trong đời sống tâm lý con người và sáng tạo ra phương pháp phân tâm học. Ông đưa ra cách tiếp cận phân tâm học với văn hoá, mô tả sự xung đột của văn hoá với con người; đồng thời, phác hoạ nên bức tranh về nhân cách năng động hơn, phức tạp hơn, đầy những mâu thuẫn và xung đột hơn so với tâm lý học cổ điển. Tuy nhiên, cách tiếp cận phân tâm học đã dẫn Freud tới chỗ hiểu sai về bản chất của văn hoá, trộn lẫn lao động với bản tính tự nhiên của con người. Tựu trung lại, học thuyết của Phrớt không thoát khỏi những bế tắc.

  • xem toàn bộ

Nội dung khác