Những người cuối cùng của một “Thế hệ Vàng”

09:18 CH @ Thứ Ba - 18 Tháng Giêng, 2011

Nhớ lại ngày xưa cái thành ngữ “trăm tuổi” hay “hai năm mươi” ngụ ý nói về giới hạn cuộc sống con người, nghĩa là nhắc đến cái chết… Bây giờ thì sống trăm tuổi có lẻ dần thành chuyện không lạ.

Nhưng với người đã lập được danh trên trường chính trị, có mặt và trải nghiệm qua những biến cố trọng đại của lịch sử thì phải nói thọ đến trăm tuổi mới thực sự là “cổ lai hy” (xưa nay hiếm).

Năm ngoái ta vừa chúc mừng hai vị chính khách cao niên là các cụ Võ Nguyên GiápTrần Văn Giàu, đều sinh năm 1911. Chưa bước sang năm nay, cụ Giàu đã lên đường... Và năm 2011 này ta lại có dịp nhắc đến một nhân vật của thời kỳ lịch sử gắn với cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay cũng bước vào tuổi 100. Đó là cụ Vũ Đình Hoè, Bộ trưởng Bộ Giáo dục đầu tiên trong Chính phủ Lâm thời đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, rồi bước vào năm 1946 chuyển sang làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến cho đến năm 1960 thì chuyển dần sang các hoạt động xã hội và nghề nghiệp của một nhà luật học thâm niên.

Khác hai cụ Võ Nguyên GiápTrần Văn Giàu cao hơn một tuổi, cụ Vũ Đình Hoè (sinh năm 1912) không phải là đảng viên Đảng Cộng sản, nhưng lại là đảng viên “Dân chủ Đảng”, một “đảng bạn” có nhiều trí thức tham gia, ra đời trong cao trào giải phóng dân tộc có mối liên hệ và chịu ảnh huởng tích cực của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Chính với vai trò đại diện cho Đảng Dân chủ, một lực lượng rất tích cực hoạt động cùng Việt Minh trong cuộc đấu tranh giành chính quyền ở Hà Nội, cụ Hoè được triệu tập lên Chiến khu Tân Trào để tham dự Quốc dân Đại hội. Và có thể là do biết đến những gì mà nhà luật học trẻ tuổi này đã tập hợp một đội ngũ hùng hậu các “sĩ phu hiện đại” của Bắc Hà tham gia bàn thảo việc nước trên tờ báo “Thanh Nghị” mà cụ Hồ Chí Minh đã mời Vũ Đình Hoè chấp chính ghế Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục trong Nội các đầu tiên của mình.

Trong hồi ức, Vũ Đình Hoè luôn nhắc đến “ông Ké Cao Bằng” mà cụ thoáng gặp ở Quốc dân Đại hội Tân Trào và vô cùng thán phục khi thấy cung cách cụ Chủ tịch giải quyết những đề nghị đầu tiên của Bộ trưởng Giáo dục chóng vánh và dứt khoát (sớm khai giảng đại học, chấp thuận giá trị bằng cấp của chế độ cũ và chủ động nhắc đến việc xoá nạn mù chữ mà cụ Hoè cùng các đồng sự trong Hội Truyền bá Quốc ngữđã làm từ trước cách mạng).

Nhưng công việc giáo dục đang hanh thông thì cụ Chủ tịch lại vời vị luật gia trẻ tuổi về với nghề nghiệp của mình khi bổ làm Bộ truởng Bộ Tư pháp mà cụ Hồ gọi là “tổ kiến lửa” trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến cho đến năm 1960, khi bản Hiến pháp mới ra đời và lần đầu tiên được ban hành và Bộ Tư pháp cũng không còn nữa.


Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ trưởng Tư pháp Vũ Đình Hoè dự lễ tuyên thệ của các thẩm phán đầu tiên của nền tư pháp độc lập.

Có thể nói đây là thời kỳ tâm đắc nhất mà luật gia Vũ Đình Hoè được chứng kiến và trực tiếp tham dự trong quá trình xây dựng nền móng pháp lý của chế độ Dân chủ - Cộng hoà. Cụ gọi giai đoạn từ 1945 đến 1948 là “tuần trăng mật” giữa những người cộng sản và những trí thức khao khát dân chủ với người nhạc trưởng là vị lãnh tụ của cách mạng, người am hiểu sâu sắc nền chính trị cả Đông lẫn Tây khi lựa chọn thể chế cho Nhà nước Việt Nam độc lập.

Nhóm “Thanh Nghị” (tên gọi một tờ báo) của Vũ Đình Hoè với nhiều luật gia danh tiếng như Phan Anh, Vũ Văn Hiền, Vũ Trọng Khánh... từng có những cuộc trao đổi, tranh luận trên tờ “Thanh Nghị” về các thể chế chính trị mà nước Việt Nam phải lựa chọn khi cảm nhận được thời cơ độc lập đang đến gần. Tuy nhiên, tất cả những mô hình và bước đi mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra, vào cái khoảnh khắc quyết định của lịch sử, cùng với độ lùi thời gian cho thấy, là một tư tưởng tiên tiến và một tinh thần dân chủ rất hiện đại.

Tư tưởng hiến chính hình thành rất sớm ở nhà cách mạng xuất thân ở một xứ thuộc địa lạc hậu nhưng có cơ hội và chủ động tạo ra cơ hội để được đi, quan sát và học hỏi từ thực tiễn của nhiều quốc gia có chế độ chính trị khác nhau. Ngay cả khi khởi đầu các hoạt động chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra tư tưởng nhất quán “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” khi minh hoạ cho “Bản yêu sách 8 điểm” gửi Hoà hội Versaille. Và tinh thần phải xây dựng Hiến pháp cũng đã được Hồ Chí Minh nêu ra khi soạn thảo Cương lĩnh Việt Minh (1941) cũng như tại Quốc dân Đại hội Tân Trào (1945).

Vũ Đình Hoè may mắn giữ vai trò Bộ tưởng Tư pháp vào đúng thời điểm trọng đại ấy. Ông lãnh cương vị này vào đúng ngày đầu năm 1946, trong một Chính phủ Liên hiệp Lâm thời với sự tham dự của nhiều đảng phái có khuynh hướng chính trị khác nhau, thậm chí đối lập nhau, nhưng có một quan điểm chung là chống cuộc xâm lăng trở lại của thực dân Pháp, cho nên còn gọi là Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến.

Chính nhờ được sự thoả hiệp để đại đoàn kết này mà cuộc Tổng tuyển cử được tổ chức. Một cuộc Tổng tuyển cử mà thể lệ của nó bảo đảm tinh thần dân chủ tối đa, ngay cả nhiều quốc gia tiên tiến đương thời cũng chưa thực hiện. Thí dụ chế độ phổ thông đầu phiếu trên cơ sở bình đẳng nam nữ, dân tộc, tôn giáo, thân phận xã hội... Và tiếp đó là một bản hiến pháp được soạn thảo bởi một tập thể các nhà trí thức và chuyên môn am hiểu với một tinh thần dân chủ và ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh dân tộc.

Tinh thần tiên tiến của Bản Hiến pháp năm 1946 không chỉ là đóng góp của các nhà chuyên môn mà nó được chỉ đạo bằng một tư tưởng chính trị rất nhất quán. Những nhà luật học của chế độ cũ, kể cả vị Thượng thư Bộ Hình của Nam triều là cụ Bùi Bằng Đoàn cũng được mời tham gia. Nó đã tạo được nền tảng, nhưng trên cái nền tảng lý luận ấy để xây dựng được một nền pháp trị phù hợp với một xã hội vốn đậm đặc chất tiểu nông lại du nhập thêm những tư tưởng chính trị quá mới mẻ của nền “dân chủ nhân dân” là cả một thách thức vô cùng to lớn.

Lại thêm, cuộc chiến tranh khốc liệt và triền miên khiến cho một xã hội điều hành theo pháp luật khó có thể xác lập để thay thế một xã hội thời chiến điều hành theo chính sách và quyền lãnh đạo thống soái của chính trị. Ai cùng biết bản Hiến pháp 1946 là tiên tiến và sáng giá, nhưng không nhiều người biết rằng nó mới được thông qua tại kỳ họp thứ hai của Quốc hội khoá I, nhưng chưa kịp công bố thì chiến tranh đã bùng nổ… Do vậy cho đến khi bản Hiến pháp được Quốc hội thông qua ngày 31-12-1959 và được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh ban hành ngày 1-1-1960, thì nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mới thực sự được điều hành bằng một Hiến pháp có 2 mục tiêu cơ bản là “Đấu tranh thống nhất đất nước và Xây dựng Chủ nghĩa Xã hội”. Lại thêm một thử thách mới vì cuộc chiến tranh giải phóng và mục tiêu xây dựng một mô hình nhà nước còn quá mới mẻ khiến cho cái mục tiêu xây dựng một nhà nước pháp chế và một xã hội “sống và làm việc theo pháp luật” vẫn trở nên một thách đố không dễ khả thi.

Nhiều năm sau khi đã rời khỏi công việc nhà nước và sau khi đoàn thể mà cụ gắn bó, Đảng Dân chủ đã không còn, Vũ Đình Hoè tập trung vào việc nhìn nhận lại chặng đường từng trải của mình gắn với lịch sử của dân tộc... Sách cụ viết không hoàn toàn chỉ là hồi ức của một cá nhân, mà giống như Võ Nguyên Giáp, qua những trải nghiệm của “người trong cuộc” để viết đến những vấn đề gắn với lịch sử cuộc cách mạng giải phóng và công cuộc xây dựng nhà nước Việt Nam độc lập. Với cụ Vũ Đình Hoè, đó là lịch sử một thế hệ trí thức đi theo cách mạng với tất cả vẻ đẹp hào hùng xả thân vì nghĩa lớn cùng những bi kịch của một quá trình “tự lột xác” để phù hợp với một cuộc đấu tranh giai cấp được áp đặt như một động lực cách mạng; là lịch sử xây dựng thiết chế nhà nước, đặc biệt và về các hoạt động tư pháp.

Với cương vị một Bộ trưởng Tư pháp “ngoài đảng”, cụ Vũ Đình Hoè viết về những nảy sinh trong quan điểm xây dựng pháp luật sau khi “tuần trăng mật” đã chuyển sang mối quan hệ giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo. Cuộc tranh luận nảy lửa trên báo “Sự Thật” của Đảng Cộng sản và báo “Độc Lập” của Dân chủ Đảng xoay quanh chủ đề “Tư pháp và Nhà nước” mà hạt nhân là có hay không có nguyên lý “Tư pháp độc lập” giữa nhà báo cộng sản Quang Đạm và nhiều luật gia vốn được đào tạo trong chế độ cũ nhưng đã nhiệt tình đi theo Đảng Cộng sản làm cuộc cách mạng giải phóng và kháng chiến kiến quốc đã nêu lên nhiều vấn đề nóng bỏng đương thời mà đọc lại đến nay vẫn có giá trị thời sự.

Vấn đề cốt lõi suy cho cùng vẫn xoay quanh cái nguyên lý bất hủ của cách mạng tư sản về “Tam quyền phân lập” với quan điểm về nhân tố chính trị lãnh đạo Nhà nước phải giữ vai trò quyết định cho mối quan hệ giữa sự phân quyền tập quyền. Thực tiễn nảy sinh xung đột giữa bộ máy hành pháp và tư pháp đã được bàn luận vào thời điểm bộ máy chính quyền bắt đầu nảy sinh hiện tượng lộng quyền. Trong hồi ức, tác giả có kể đến môt vụ án của một chủ tịch huyện đã thụ án tử hình vì tội lộng quyền khi đã xử lý một cách vô đạo với một gia đình giàu có từ vùng địch chạy vào vùng tự do. Người chồng bị giết để cướp của, người vợ bị làm nhục… Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp ra yêu cầu toà án xử nghiêm.

Án thực hiện xong nhưng vẫn tác động vào cuộc tranh luận cho rằng tư pháp muốn gây sức ép với hành pháp. Thậm chí mãi về sau này, còn có người nhắc lại vụ án đó để “kiện” ngành tư pháp do một vị Bộ trưởng ngoài Đảng đứng đầu. Trong sách cụ Hoè cho biết rằng chính Bác rất quan tâm chỉ đạo việc thực hiện nghiêm luật và người ngồi ghế chánh án là một nhà cách mạng cộng sản nổi tiếng đương thời là ông Bùi Lâm, một nhà lãnh đạo Viện Công tố rất kiên quyết và khiêm nhường.

Cũng chính vì thế cuộc tranh luận về “Tư pháp với Nhà nước” đã tạm được xếp lại một cách có ý tứ và Bác Hồ vẫn là người nỗ lực để cho bước chuyển đổi quan trọng của xã hội Việt Nam dưới tác động của những chuyển biến chính trị tránh những xung đột và thích nghi dần cho dù biết rằng sự xung đột như vậy là khó tránh và chẳng dễ đạt được.

Sự xung đột đã đến mức có xu hướng chụp mũ chính trị khiến Bộ trưởng Vũ Đình Hoè đã viết đơn xin từ chức... Nhưng cho đến một ngày, trên Chiến khu, Cụ Hồ mời đến nơi đang là Phủ Chủ tịch nằm bên bờ Thác Dẫng, cụ Chủ tịch nước ôm lấy ông Bộ trưởng lòng dạ đang rối bời bời mà rằng: “Biết hết ngọn ngành rồi, không phải kể lể gì đâu. Tôi hiểu tâm trạng chú. Không nên bồn chồn. Mọi việc rồi sẽ ổn. Cứ nghĩ đến Đại nghĩa, nghĩ về mình một chút không sao. Đồng thời cũng nghĩ đến người, nghĩ nhiều đến người càng tốt và “lời nói không mất tiền mua”... ”. Cụ Hồ gửi lời thăm hỏi những thành viên trong gia đình, rồi rỉ tai: “Muốn biết thêm kinh nghiệm giải toả bế tắc thì tìm gặp Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên”. Vị Bộ trưởng Giáo dục khi đó vẫn là người ngoài Đảng (và sau này, có lần đã chuẩn bị kết nạp thì Bác và Bộ Chính trị lại đề nghị “đừng vào” có lợi cho Đảng và cách mạng hơn) cũng rơi vào tình cảnh tương tự...

Cuối sách, cụ Vũ Đình Hoè kể rằng, vài chục năm sau, nhà báo Quang Đạm gặp cụ và nhận rằng nhớ lại hồi nổ ra tranh luận, đến nay có nhiều điều phải nghĩ lại. Cụ Hoè cảm kích khi nhắc đến chi tiết này và càng thấu hiểu cái điều Cụ Hồ đã dạy là “cứ nghĩ đến Đại nghĩa” mọi việc rồi sẽ ổn.

Bước vào tuổi 100, cụ Hòe đang dưỡng già ở miền Nam ấm áp, mới đây các đồng nghiệp nghề giáo học đã tổ chức đại thọ cho nhà giáo của Trường Thăng Long nổi tiếng năm xưa, nơi mà Võ Nguyên Giáp cũng từng đứng trên bục giảng. Đó là những người cuối cùng của một “Thế hệ Vàng” mà cũng như người dẫn đạo cho thế hệ ấy là cụ Hồ Chí Minh, có lẽ trong lịch sử dân tộc phải bao nhiêu lâu mới xuất hiện một lần. Vì ngọn cờ “Đại nghĩa” đâu phải tự nhiên mà có.

1-2011

LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Nhà Sử học

    13/12/2015Nhà văn Thiếu SơnLịch sử đã để lại cho chúng ta những tấm gương thành bại, những kỷ niệm hưng vong, ta có thể lấy làm những bài học cho con đường xử thế. Lịch sử đã ghi những công nghiệp hiển hách của tổ tiên, đã phát biểu cái sinh lực hùng cường của nòi giống, chính là những cái nó còn vướng vít ở tâm hồn...
  • Bài học lịch sử

    16/11/2015Nhà văn Thiếu Sơn (1908-1978)Bỏ được chiếc ngai vàng là một bước tiến vĩ đại giúp cho nhà lãnh đạo phải thân dân, chịu sự kiểm soát của dân. Nhưng cũng do đó mà họ có sự hậu thuẫn thường xuyên của dân tộc. Thiếu sự hậu thuẫn đó hay làm mất sự hậu thuẫn đó, họ sẽ bị lạc lõng cô đơn. Nếu họ không bị nhân dân quật ngã thì họ cũng bị ngoại bang chi phối...
  • Cương lĩnh chính trị của Phan Châu Trinh

    20/03/2014Mai Thái LĩnhMột số nhà nghiên cứu hiện nay tìm cách giải thích tư tưởng của ông theo chiều hướng “cải lương”: chỉ đánh giá cao ông như một nhà giáo dục, nhà văn hóa lớn (thậm chí một nhà cách mạng văn hóa) mà vô tình hay cố ý bỏ quên vai trò của Phan Châu Trinh với tư cách là một nhà hoạt động chính trị...
  • Trần Trọng Kim với Việt Nam Sử Lược

    16/03/2014Mai Khắc ỨngTôi nhận biết một Trần Quốc Vượng bên trong Trần Quốc Vượng trên bục giảng của đời sống hiện đại. Theo chỉ bảo của thầy Vượng, tôi nghiền ngẫm cuốn sách "Việt Nam Sử lược" và mãi cho đến nay, mỗi lần cần viện đến chứng cứ lịch sử, tôi vẫn phải nhờ Trần Trọng Kim...
  • Nguyễn Mạnh Tường - một chân dung & một hành trình như tôi hiểu

    09/11/2013Phong LêTrong tôi, từ lúc là học sinh, Nguyễn Mạnh Tường đã là người nổi tiếng nhất trong những người nổi tiếng, dẫu phải đến tuổi 18, khi thi đỗ vào Khoa Văn Đại học Tổng hợp, năm 1956 mới được học, được đọc và tiếp xúc với ông – trong môn Văn học phương Tây...
  • Bài thơ cuối cùng của thầy giáo Hoàng Đạo Thúy

    24/12/2010Trần Kiến QuốcNgày 15/4/1946, theo chỉ thị của Hồ Chủ tịch, Trường Cán bộ Việt Nam (tiền thân là Quân chính kháng Nhật) được đổi thành Võ bị Trần Quốc Tuấn, thực hiện đào tạo cán bộ chỉ huy cấp trung, đại đội trong thời gian 6 tháng. Người đã bổ nhiệm ông Hoàng Đạo Thuý, một nhà giáo yêu nước, nguyên Trưởng phòng thông tin (Bộ Tổng Tham mưu) làm Hiệu trưởng...
  • Tổng tuyển cử đầu tiên và sự hoàn thiện, phát triển các chế định bầu cử ở nước ta

    15/12/2010Trần Văn TámHơn 65 năm đã trôi qua, nhưng niềm vinh dự, tự hào ấy vẫn còn mãi trong tâm trí triệu triệu người dân nước Việt. Bởi đó là lá phiếu của tự do, của độc lập dân tộc, lá phiếu giành được từ biết bao xương máu của đồng bào, đồng chí. Lá phiếu khẳng định nền độc lập, tự chủ của dân tộc - nền móng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà…
  • Cụ Huỳnh Thúc Kháng và những năm cuối đời

    11/12/2010Phạm Hồng ViệtSau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thắng lợi, mặc dù đã ở tuổi 70, nhưng với tấm lòng vì dân, vì nước và trước nhiệt tâm của Hồ Chủ tịch,Huỳnh Thúc Kháng đã trở thành người cộng sự tri kỷ của Chủ tịch Hồ Chí Minh...
  • Trần Đức Thảo – trở về từ quên lãng

    18/11/2010Hương Lan thực hiệnTrong cuộc toạ đàm về nhà triết học Trần Đức Thảo, với tư cách chủ toạ, nhà phê bình văn học – sân khấu Jean-Pierre Han, tổng biên tập tạp chí Les Lettres Françaises (Văn chương Pháp, ra đời năm 1941) và nhà triết học Jean-François Poirier đã thông báo một quyết định khá bất ngờ: Les Lettres Françaises sẽ thực hiện một chuyên đề về Trần Đức Thảo, người được xem là nhà triết học của cả hai quốc gia Pháp và Việt Nam.
  • Nguyễn Khắc Viện và những “di cảo” chưa công bố

    12/09/2010Trung SơnBác sỹ, nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện (1913-1997)đã viết hàng trăm bài báo, hàng chục bản “kiến nghị” bàn về nhiều vấn đề quan trọng của đất nước. Trong di cảo của Nguyễn Khắc Viện có một tư liệu chưa hề được công bố chính thức đó là gần 30 bản kiến nghị, tham luận, thư gửi các cơ quan, lãnh đạo Đảng, Quốc hội và Chính phủ trong 16 năm (1976-1993). Xin trích một vài đoạn trong tư liệu này.
  • xem toàn bộ