Tiếp cận một số vấn đề về nhận thức khoa học

02:54 CH @ Thứ Tư - 07 Tháng Giêng, 2015

Lý luận nhận thức được coi là học thuyết về khả năng nhận thức của con người, về sự xuất hiện và phát triển của nhận thức cũng như về con đường, phương pháp nhận thức…Từ trước đến nay, vấn đề nhận thức luôn là một trong những bộ phận cơ bản của khoa học triết học.Hiện tại, vấn đề nhận thưc khoa học vẫn đang tiếp tục được nghiên cứu, bổ sung và phát triển nhằm giúp cho con người ngày càng hoàn thiện hơn những trị thức của mình về bức tranh thế giới hiện thực, do vậy, tiến gần hơn đến chân lý.

Lịch sử phát triển của triết học cho thấy, vấn đề nhận thức khoa học được đặt ra từ rất sớm, đầu tiên là trong triết học Hy - La cổ đại, khoảng thế kỷ VI - IV TCN. Tuy nhiên, trong thời kỳ cổ đại, do những hạn chế về các phương tiện, phương pháp nhận thức cũng như khả năng của mình, nhận thức của con người đối với thế giới khách quan còn giản đơn, mang tính phỏng đoán hoặc chỉ dựa vào suy lý. Luận bàn về vấn đề nhận thức khoa học mới chỉ là bước đầu, làm cơ sở cho sự phát triển, hoàn thiện lý luận về nhận thức sau này.

Đến thời trung cổ, người ta đã cố gắng tìm cách giải thích thế giới thông qua tính tích cực của nhận thức con người. Tuy nhiên, việc giáo dục trí tuệ khi đó còn là sự độc quyền của các cha cố và có xu hướng thiên về thần học. Điều này dẫn đến khó tránh khỏi cách đặt vấn đề: phải chăng có thể nhận thức được “thượng đế” và linh hồn của con người là linh hồn của “Chúa”…Do vậy, trong suốt thời kỳ trung cổ, tri thức lý luận và các phương pháp nhận thức khoa học gần như không xuất phát từ thực tiễn, không gắn với thực thiễn sản xuất.

Phủ nhận tính phi khoa học của triết học kinh viện, nhận thức luận cổ điển đã giải thích thế giới bằng phương pháp nghiên cứu thực nghiệm, phương pháp duy lý. Cantơ đi xa hơn khi ông dùng cả những yếu tố biện chứng lẫn siêu hình của phương pháp “tiên nghiệm” để lý giải thế giới. Mặc dù có nhiều đóng góp về vấn đề nhận thức luận, song Phoiơbắc coi sự khác nhau giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính chỉ đơn thuần về mặt số lượng, tư duy chỉ là sự tập hợp giản đơn những tri thức cảm tính. Với phương pháp biện chứng tư biện duy tâm, Hêgen đã cung cấp một công cụ vĩ đại phục vụ cho quá trình nhận thức. Song, trong phương pháp của ông, phép biện chứng chỉ là phương tiện mang tính tư biện, duy tâm để giúp cho việc “tha hóa” của ý niệm tuyệt đối”.

Có thể nói rằng, do hạn chế về mặt lịch sử và khoa học, nhận thức luận trước Mác còn nhiều thiếu sót; về cơ bản, nó mới dừng lại và được coi như một công cụ để giải thích thế giới, mà chưa thấy được nhiệm vụ lớn hơn là cải tạo thế giới hiện thực.

Khắc phục những thiếu sót của triết học trước đó, C.Mác và Ph. Ăngghen đã đưa ra những quan điểm, nguyên tắc có tính nền tảng về lý luận nhận thức, thực hiện bước ngoặt cách mạng trong lý luận nói chung và lý luận nhận thưc nói riêng. C. Mác cho rằng khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật, kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, là đã không thấy được vai trò của thực tiễn cũng như của chủ thể nhận thức; rằng, đối với nó, các”…sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn, không được nhận thức về mặt chủ quan”. Với ông, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý và “vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề để thực tiễn”; rằng, đời sống xã hội, về bản chất, là có tính thực tiễn. Như vậy, nhận thức khoa học đã được C.Mác coi như một hình thức hoạt động đặc thù, một quá trình phản ánh tích cực về hiện thực thông qua những chủ thể xã hội và là sự thu nhận tri thức vào ý thức con người.

V.I. Lênin đã kế tục tư tưởng vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen, phát triển sâu sắc lý luận nhận thức nói chung và nhận thức khoa học nói riêng như một bộ phận cấu thành hệ thống triết học macxít hoàn chỉnh. Ông cho rằng, nhận thức là sự phản ánh giới tự nhiên bởi con người, bao gồm cả một chuỗi những sự trừu tượng, sự cấu thành, sự hình thành các khái niệm, quy luật…;rằng, “nhận thức là quá trình, xâm nhập (của trí tuệ) vào giới tự nhiên…” và nó "... là sự tiến gần mãi mãi và vô tận của tư duy đến khách thể...". Đặc biệt, trong Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, Lênin đã chỉ ra những vấn đề cơ bản nhất của nhận thức khoa học, như đối tượng nhận thức, khả năng nhận thức thế giới khách quan của con người và biện chứng phức tạp của quá trình nhận thức. Điều đó đã khẳng định vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường duy vật biện chứng. Hơn thế, trong khi khái quát về nhận thức khoa học và khả năng nhận thức của con người đối với thế giới khách quan, Lênin đã phê phán sâu sắc các quan điểm duy vật siêu hình, duy tâm, thuyết không thể biết... liên quan đến vấn đề này.

Lý luận nhận thức trong triết học Mác - Lênin là một trong những thành qủa vĩ đại của khoa học triết học và nó tiếp tục được các nhà triết học macxít sau này vận dụng, phát triển. Nhà triết học Nga V.I.Cúpxốp chỉ ra rằng, nhận thức khoa học có thể chia thành kết quả nhận thức và quá trình thu nhận tri thức đó. Nếu tiếp cận nhận thức khoa học như một quá trình thì nó được bắt đầu từ việc thu thập những sự kiện. Song, sự tích luỹ các sự kiện khoa học không diễn ra một cách tự phát, mà là hoạt động có mục đích, có kế hoạch và có ý thức. Bởi vì, trên thực tế, trước khi triển khai việc nghiên cứu một vấn đề nào đó, nhà khoa học đã chủ động xác định cần phải thu thập những sự kiện, tài liệu nào, ở đâu và sử dụng các phương tiện, phương pháp gì để đạt được mục tiêu đề ra... Xét về tư duy khoa học, nhận thức khoa học là hình thái có tính trừu tượng và khái quát cao nhất, nhằm mục đích tìm kiếm, phát hiện các nguyên lý, sơ đồ khoa học mới có tính tổng quát hơn, sâu sắc hơn. Nhìn một cách tổng quát, có thể thấy rằng, nhận thức khoa học được hình thành một cách tự giác và mang tính trừu tượng, khái quát ngày một cao, đồng thời, nó thể hiện tính năng động, sáng tạo của tư duy trừu tượng. Theo đó, những thuộc tính, kết cấu, những mối quan hệ bản chất, những quy luật của thế giới khách quan được phản ánh dưới dạng logic trừu tượng. Mục đích của hoạt động nhận thức khoa học là hướng tới nắm bắt được cái có tính quy luật, cái bản chất chứ không dừng lại ở cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên, cái đơn nhất của đối tượng được nhận thức.

Tựu trung lại, theo quan điểm macxít, nhận thức khoa học được tiếp cận với tư cách một loại hình nhận thức đạt đến trình độ cao, khác với nhận thức thông thường. Nó là quá trình phản ánh tự giác, tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của con người thông qua thực tiễn, nhằm đạt tới hệ thông tri thức đúng đắn về tự nhiên, xã hội và các lĩnh vực cụ thể khác, nâng cao khả năng tư duy và hiệu quả hoạt động thực tiễn của con người.

Nhận thức khoa học có cấu trúc phức tạp và có thể tiếp cận từ nhiều góc độ, chẳng hạn, theo nguồn gốc, trình độ, các vòng khâu hoặc theo các giai đoạn của quá trình nhận thức... Tiếp cận cấu trúc nhận thức khoa học từ các thành tố của nó, như tri thức khoa học, phương pháp tư duy khoa học, khả năng vận dụng khoa học hệ thống tri thức vào thực tiễn... là một trong những cách tiếp cận cơ bản, hệ thống và toàn diện nhất.

Tri thứckhoa học

Con người cải biến tự nhiên thông qua hoạt động thực tiễn của mình. Hoạt động đó ngày càng trở nên tự giác vì nó được dẫn dắt, chỉ đạo bởi "bộ não thông minh", bởi tri thức khoa học. Trong lịch sử triết học, tri thức luôn được đề cao. Hêraclít đã coi tri thức là mặt trời thứ hai, Ph.Bêcơn đưa ra quan niệm cho rằng, tri thức là sức mạnh, sức mạnh là tri thức và do vậy, con người cần phải thống trị, làm chủ thế giới tự nhiên và khả năng đó thực hiện được hay không phụ thuộc vào sự hiểu biết của con người. Và, theo Ph.Ăngghen, trước khi nghiên cứu những sự biến đổi của một đối tượng nào đó, cần phải sơ bộ tiếp nhận dù chỉ là một soái thức về đối tượng đó.

Với tư cách thành tố của nhận thức khoa học, tri thức bao gồm toàn bộ những hiểu biết sâu sắc, phong phú và đa dạng của con người về thế giới khách quan. Nó bao hàm tri thức - nguồn, tri thức - tiền đề và tri thức - kết quả của quá trình nhận thức Khác với nhận thức thông thường, tri thức trong nhận thức khoa học phải đúng đắn, chân thực và phản ánh sự nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về thế giới khách quan. Tri thức khoa học có thể được tiếp cận ở nhiều lĩnh vực, phạm vi... Song, xét về trình độ phản ánh qua các giai đoạn của quá trình nhận thức, tri thức khoa học như một chỉnh thể bao gồm các cấp độ trực quan khoa học, kinh nghiệm khoa học, lý luận khoa học.

Tri thức trực quan khoa học là kết quả của quá trình nhận thức và phản ánh trực tiếp thế giới khách quan của chủ thể. Nội hàm của nó phản ánh các mặt, các bộ phận bên ngoài sự vật, hiện tượng, thông qua các hình thức cảm giác, tri giác, biểu tượng. Cảm giác là cơ sở nền tảng cho các giai đoạn nhận thức tiếp theo, như Lênin khẳng định: "Tiền đề đầu tiên của lý luận về nhận thức chắc chắn là ở chỗ cho rằng cảm giác là nguồn gốc duy nhất của hiểu biết của chúng ta". Tri thức trực quan khoa học không đồng nhất với trực quan "thuần" cảm tính. Cảm giác, tri giác, biểu tượng với tư cách thành tố của trực quan khoa học đã vượt qua cái giới hạn “cảm tính thuần tuý" để thể hiện một trình độ khoa học của nhận thức. Bởi vậy, như nhận định của Goócki, "không có cơ sở nào để phủ định sự phản ánh cảm tính, coi thường vai trò của nó như là nấc thang đặc thù của nhận thức, mà nó có ý nghĩa cơ bản, trong sự hình thành tư duy khoa học".

Kinh nghiệm khoa học là những tri thức khoa học được đúc kết trực tiếp trong quá trình lao động sản xuất, hoạt động chính trị - xã hội hoặc thực nghiệm khoa học dưới sự chỉ đạo của nhận thức lý tính. Trong kinh nghiệm, cái quan trọng chính là trí tuệ mà người ta dùng để tiếp xúc với hiện thực. Một trí tuệ vĩ đại thực hiện được những kinh nghiệm vĩ đại, và thấy được cái gì là quan trọng trong sự vận động muôn vẻ của các hiện tượng. Kinh nghiệm khoa học là sự tiếp tục với chất lượng mới của trực quan khoa học, nó dựa trên cơ sở cảm tính nhưng đồng thời là điều kiện của nhận thức lý luận, là cầu nối giữa thực tiễn với lý luận khoa học.

Lý luận khoa học là trình độ cao của nhận thức khoa học, mang tính trừu tượng, khái quát cao, phản ánh đối tượng nghiên cứu bằng cách "tước bỏ" những mặt, những thuộc tính không bản chất. Nó là kết quả của quá trình nhận thức, trong đó chủ thể nhận thức đạt đến bản chất, quy luật bên trong của sự vật, hiện tượng và dựa vào đó, xây dựng các giả thuyết, lý thuyết khoa học và dự báo khoa học. Những hình thức cơ bản nhất của lý luận khoa học bao gồm: khái niệm, phán đoán, suy lý.

Như vậy, với tư cách là bộ phận cấu thành của nhận thức khoa học, tri thức khoa học bao gồm nhiều tầng bậc, trình độ khác nhau, song có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau. Trong đó, tri thức trực quan khoa học và kinh nghiệm khoa học phải có sự dẫn dắt của lý luận khoa học. Tri thức trực quan khoa học là cơ sở trực tiếp hình thành kinh nghiệm khoa học, và đến lượt nó, kinh nghiệm khoa học lại là cơ sở trực tiếp hình thành lý luận khoa học. Sự gắn bó hữu cơ của tri thức khoa họe thuộc mọi cấp độ luôn dựa trên cơ sở thực tiễn.

Trong hệ thống tri thức, xét từ góc độ các khoa học, tri thức triết học đương nhiên là có tính chất nền tảng về mặt lý luận. Nó "có khả năng vũ trang cho các nhà khoa học thế giới quan và phương pháp luận tối ưu để người ta có thể xử lý mối quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết nhằm tiếp tục chiếm lĩnh những bí ẩn vô tận của thế giới". Đặc biệt, đối với các khoa học, phép biện chứng duy vật trở thành công cụ, phương pháp phổ biến của nhận thức khoa học.

Phương pháp tư duy khoa học là thành phần cơ bản trong cấu trúc của nhận thức khoa học, giữ vai trò trực tiếp quy định hiệu quả quá trình tiếp nhận, hình thành, phát triển và phát huy tri thức khoa học. Những người theo chủ nghĩa duy tâm coi phương pháp tư duy như một phạm trù thuần tuý chủ quan, là tổng hợp các quy tắc do lý trí con người tự ý đặt ra để "tiện" cho hoạt động nhận thức. Trái lại, theo quan điểm duy vật biện chứng, phương pháp tư duy là những cách thức chung nhất của tư duy trong tiếp cận hiện thực, nghiên cứu các đối tượng trong sự vận động, phát triển, biến hoá không ngừng của nó. Phương pháp tư duy khoa học phải được hiểu như một hệ thống tổng hợp các cách thức, biện pháp tư duy nhất định và được tổ chức, sắp xếp sao cho có thể phối hợp được với các tri thức "nền", tri thức tiền đề. Nó đóng vai trò như các công cụ, phương tiện cho hoạt động nhận thức, sáng tạo những tri thức khoa học mới từ hệ thống tri thức khoa học đã có.

Đề cập đến vấn đề phương pháp tư duy trong nhận thức khoa học không thể không quan tâm tới những đặc tính sáng tạo của nó, như tính độc lập, tính phê phán, tính mềm dẻo, linh hoạt, kiên định... cũng như làm rõ các hình thức của tư duy như khái niệm, phạm trù, phán đoán... Phương pháp tư duy khoa học còn chứa đựng các thao tác tư duy khoa học bảo đảm cho nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn, từ nhận thức cảm tính đạt tới nhận thức lý tính, từ nhận thức kinh nghiệm tới lý luận khoa học. Vai trò của thao tác tư duy khoa học được thể hiện ở tất cả các giai đoạn khác nhau, đặc biệt là giai đoạn tư duy trừu tượng trong quá trình nhận thức khoa học.

Hệ thống phương pháp tư duy khoa học bao gồm các phương pháp lý thuyết và phương pháp thực nghiệm. Trong các phương pháp lý thuyết ngày càng được sử dụng rộng rãi hiện nay, cần phải chú ý phương pháp trừu tượng hoá và khái quát hoá, bởi đó là một trong những công cụ chủ yếu để nhận thức chân lý, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của con người. Các phương pháp giả định - suy diễn, phương pháp tiền đề - kết luận, phương pháp thuật toán - toán học không ngừng được nghiên cứu và hoàn chỉnh thêm. Các phương pháp hệ thống - cấu trúc, hình thức hoá và mô hình hoá... ngày càng có vai trò quan trọng trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học hiện đại. Mặc dù vai trò của phương pháp lý thuyết ngày càng tảng lên, song không vì thế mà ý nghĩa của các phương pháp thực nghiệm (quan sát, thí nghiệm, đo đạc) bị suy giảm. Trong nhiều trường hợp, nhất là đối với khoa học tự nhiên, các phương pháp thực nghiệm còn đóng vai trò kiểm tra, thẩm định tính chân thực của các kết luận hoặc giả thuyết khoa học được rút ra nhờ phương pháp lý thuyết. Thậm chí, một số thực nghiệm cụ thể nào đó còn có thể quyết định một hướng nghiên cứu, hoặc một lý thuyết khoa học đang hình thành. Trình độ thực nghiệm sẽ ngày càng tinh vi, phức tạp với các dụng cụ, phương tiện ngày càng hiện đại. Cùng với sự phát triển của nhận thức khoa học, đặc biệt trong khoa học - công nghệ hiện đại, trình độ thực nghiệm cũng như các phương tiện, công cụ của hoạt động đó sẽ phát triển hiện đại hơn và hữu ích hơn đối với nhận thức của con người.

Khả năng vận dụng hệ thông tri thức vào thực tiễn là một thành tố đặc biệt quan trọng, một bộ phận không thể thiếu trong cấu trúc của nhận thức khoa học. Nhờ nó, các thành phần khác mới bộc lộ hết giá trị hiện thực của mình. Con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan như Lênin đã chỉ rõ, đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng trên thực tiễn. Con người khám phá, tìm hiểu thế giới hiện thực không phải chỉ vì muốn biết nó là cái gì, như thế nào... mà hơn thế, trước hết và chủ yếu là để cải tạo, biến đổi cái "vật tự nó" thành cái "vật cho ta" dựa trên những hiểu biết, tri thức đã có về nó. Sự phê phán của C.Mác rằng, "các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới" chính là với ý nghĩa như vậy.

Nhận thức khoa học là một quá trình mà mục đích của nó là đạt tới chân lý. Một kết luận hay giả thuyết khoa học chỉ được coi là đúng đắn, là chân lý khi nó được xác nhận bởi thực tiễn. Trong quan hệ với nhận thức, thực tiễn không chỉ là cơ sở của nhận thức mà còn là tiêu chuẩn của chân lý. Thông qua thực tiễn, nhận thức phát huy được vai trò chỉ đạo hoạt động của con người trong cải tạo hiện thực khách quan, đồng thời, được kiểm nghiệm, bổ sung, phát triển ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, không phải mọi sự vận dụng tri thức khoa học vào thực tiễn đều được bao hàm trong phạm trù nhận thức khoa học. Sự áp đặt gán ghép một lý thuyết nào đó vào cuộc sống một cách thô thiển, cứng nhắc không những không đem lại hiệu quả, mà còn bộc lộ tính phản khoa học trong quá trình nhận thức.

Các thành tố trên đây của nhận thức khoa học có mối liên hệ thống nhất, biện chứng, tác động qua lại và chuyển hoá lẫn nhau, thúc đẩy nhau phát triển. Trong đó, nếu tri thức nền là cơ sở ban đầu, nguồn "dụ trữ năng lượng" cần thiết cho các thành tố sau, thì phương pháp tư duy khoa học là hệ công cụ cần thiết để giải phẫu những tri thức đang có và tiếp tục tìm kiếm chân lý, đồng thời, khả năng vận dụng đúng đắn hệ thống tri thức vào thực tiễn là thành tố hoạt hoá các tri thức khoa học đã được tiếp nhận, làm cho nhận thức khoa học thực sự xuất phát từ thực tiễn và quay trở lại phục vụ hoạt động thực tiễn. Việc phát huy vai trò của nhận thức khoa học trong hoạt động thực tiễn thực chất là quá trình phát triển, hoàn thiện các thành tố của nhận thức khoa học, song phải bảo đảm sự thống nhất chặt chẽ giữa chúng, bởi sự vận động, biến đổi của mỗi thành tố không tách rời cấu trúc tổng thể của nhận thức khoa học.

Nhận thức khoa học không chỉ có cấu trúc phức tạp mà còn có những đặc trưng riêng so với nhận thức thông thường. Điều này được biểu hiện ở chỗ:

Thứ nhất, nhận thức khoa học mang tính khách quan, thông qua một quá trình được định hướng tự giác, tích cực, sáng tạo nhằm tiếp cận chân lý.

Xuất phát từ bản thân khách thể và đối tượng nghiên cứu chứ không phải từ ý muốn chủ quan, nhận thức khoa học phản ánh trung thành các sự vật, hiện tượng, quá trình của hiện thực khách quan. Quá trình đó dựa vào sự thật và lý trí con người chứ không phải là những ảo tưởng chủ quan và thông tin sai lệch. Mặt khác, nhận thức khoa học không diễn ra một cách tức thì hoặc có thể đạt ngay kết quả trọn vẹn, mà nó là một quá trình biện chứng phức tạp dựa trên cơ sở thực tiễn. Đồng thời, nó xa lạ với những biểu hiện giản đơn, theo công thức cứng nhắc, bất biến, hoặc có tính thụ động và lệ thuộc như trong nhận thức thông thường.

Nhận thức khoa học đòi hỏi con người phải luôn có mục tiêu xác định, có trí tuệ, khả năng quan sát, ghi nhớ và tưởng tượng sáng tạo, có năng lực trừu tượng hoá, khái quát hoá và vận dụng thực tiễn... Có như vậy, chủ thể nhận thức mới có thể nắm bắt được cái bản chất, quy luật bị che lấp trong sự hỗn độn của các hiện tượng ngẫu nhiên, mới chủ động trong các hoạt động thực tiễn dựa trên những tri thức mới, đúng đắn về đối tượng.

Thứ hai, nhận thức khoa học mang tính hệ thống, có luận cứ và sự sáng tạo tri thức khoa học mới.

Tính hệ thống của nhận thức khoa học, thực chất là tính hệ thống - chủ thể, suy đến cùng là hình ảnh chủ quan của tính hệ thống - khách thể. Nó được thể hiện trong tất cả các giai đoạn, các thành tố thuộc cấu trúc của nhận thức khoa học như mục đích, phương pháp, phương tiện... Sản phẩm đặc thù của nhận thức khoa học gồm hệ thống các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật phản ánh hiện thực khách quan trong một chỉnh thể toàn vẹn, luôn có sự chuyển hoá và không phải là bất biến.

Nhận thức khoa học còn mang tính có luận cứ và được chứng minh, điều này trước hết được thể hiện qua sự kiểm tra bằng thực nghiệm và thực tiễn. Ngoài ra, nó còn có thể được chứng minh bằng các tiêu chí logic hợp thành hệ chuẩn riêng do nhận thức khoa học tạo ra nhằm chế định các phương thức chứng minh.

Nhận thức nói chung và nhận thức khoa học nói riêng đều là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào đầu óc của con người. Tuy nhiên, nó không thuần tuý chỉ là sự "dựng lại", trình bày lại những gì thế giới khách quan đã có, vốn có. Hơn thế, nhận thức khoa học luôn gắn với sự sáng tạo, với việc khám phá từ đối tượng (các hiện tượng, quá trình, quy luật, "các điểm nút trong một màng lưới") những tri thức khoa học mới - cái mà nhận thức thông thường không thể đạt được. Nhận thức khoa học hiện đại có thể và cần phải được xem xét với tư cách kết quả của toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển của hoạt động tư duy, không chỉ chứa đựng những tri thức đã có trong lịch sử mà chính là từ đó tiếp tục sáng tạo nên các tri thức khoa học mới. Với tinh thần đó, Lênin cho rằng, không nên coi hệ thống lý luận của C.Mác là cái "đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm".

Thứ ba, nhận thức khoa học luôn đòi hỏi yêu cầu cao về tính trừu tượng hoá, khái quát hoá và cụ thể hoá.

Quá trình đi từ nhận thức tiền khoa học đến nhận thức khoa học phải thông qua các thao tác tư duy, đặc biệt là sự trừu tượng hoá, khái quát hoá. Khi trừu tượng hoá một vài thuộc tính hay các mối liên hệ trong một loạt khách thể, nhất định sẽ tạo ra điều kiện để khái quát hoá nhằm xác định phức hợp các thuộc tính vào một lớp chung, thể hiện ra như cái chung trong một loạt khách thể riêng. Tuy nhiên, trừu tượng hoá, khái quát hoá không phải là mục đích cuối cùng mà chỉ là những bước đưa chủ thể đến chỗ nhận thức cái cụ thể. Chúng thể hiện một trình độ cao hơn của nhận thức khoa học và nhờ đó, chủ thể nhận thức mới có thể đạt tới quan niệm toàn vẹn, chính xác về bản chất của khách thể nghiên cứu.

Thứ tư, nhận thức khoa học đặt ra yêu cầu cao trong sử dụng ngôn ngữ, phương pháp và phương tiện.

Để nghiên cứu, phản ánh đúng đắn khách thể, nhận thức khoa học không chỉ sử dụng ngôn ngữ tự nhiên (hệ thống ký hiệu âm thanh và sau đó là chữ viết), mà còn phải sử dụng và không ngừng phát triển ngôn ngữ chuyên biệt (là hệ thống ký hiệu bổ trợ được tạo ra bằng cách riêng trên cơ sở của ngôn ngữ tự nhiên được chuyên môn hoá). Ở trình độ lý luận, chủ thể nghiên cứu khách thể một cách gián tiếp thông qua "thực nghiệm tư tưởng", nên tất yếu phải có hệ thống ngôn ngữ khoa học. Hệ thống ngôn ngữ này được xây dựng chặt chẽ, rõ ràng, được sử dụng tương đối nhất quán, có tính chuyên môn hoá cao giúp nhận thức khoa học phản ánh ngày càng chính xác, đầy đủ đối tượng nghiên cứu nhờ vốn từ hiện đại, phong phú, đa dạng cùng với cấu trúc ngữ ngôn khoa học và tinh tế.

Cùng với yêu cầu cao về ngôn ngữ, phương pháp nhận thức đóng vai trò to lớn trong nhận thức khoa học, nếu thiếu nó thì tư duy và khả năng nhận thức của con người không thể phát triển. Tuy nhiên, trong nhận thức khoa học, không có sự tồn tại của một phương pháp “vạn năng" có thể cho phép tiếp cận mọi chân lý. Các phương pháp nhận thức khoa học không những được sử dụng phổ biến, mà còn được "chuyên hoá".

Các phương tiện kỹ thuật có tính chuyên môn hoá sử dụng trong nhận thức khoa học đóng vai trò rất quan trọng, đặc biệt là khi nhận thức ở trình độ kinh nghiệm hoặc trong hoạt động thực nghiệm khoa học. Hệ thống máy móc, trang thiết bị là cầu nối giữa chủ thể và khách thể nhận thức, trực tiếp tác động đến khách thể, giúp quá trình nhận thức khoa học có hiệu quả hơn trong việc khám phá những thuộc tính mới của đối tượng nghiên cứu, kể cả trong điều kiện khó khăn, phức tạp. Xã hội và khoa học càng phát triển, các phương tiện kỹ thuật hiện đại với tư cách những công cụ nhận thức ngày càng tham gia trực tiếp và hỗ trợ đắc lực cho quá trình nghiên cứu và tiếp nhận tri thức khoa học... Tuy nhiên, xét đến cùng, chúng chỉ là những phương tiện làm gia tăng năng lực nhận thức của con người mà không thể thay thế con người trong quá trình nhận thức.

Thứ năm, nhận thức khoa học có một liên hệ chặt chẽ với thực tiễn và thực nghiệm.Nhận thức nói chung và nhận thức khoa học nói riêng luôn có mối liên hệ chặt chẽ, khăng khít với thực tiễn. Trong quan hệ đó, thực tiễn đóng vai trò là cơ sở chủ yếu, trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực thúc đẩy sự phát triển của nhận thức, của trí tuệ con người, là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Nếu xa rời thực tiễn, không dựa trên cơ sở thực tiễn thì không thể có nhận thức đúng đắn, không thể có lý luận khoa học, và do vậy, hoạt động của con người khó vượt qua giới hạn của sự mù quáng.

Thực nghiệm khoa học là một trong những hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn, một trong các tiêu chuẩn kiểm tra chân lý. Với tư cách là "sự chất vấn đối với tự nhiên", phương pháp thực nghiệm khoa học có vai trò quan trọng đối với nhận thức khoa học, nghiên cứu khách thể bằng cách tác động trực tiếp vào chúng. Căn cứ vào những kết quả mà phương pháp thực nghiệm mang lại, người ta có đủ cơ sở vững chắc để khẳng định (xác nhận) hay bác bỏ (phủ nhận) một kết luận hoặc giả thuyết khoa học. Vì thế, nhận xét cho rằng, kiểu nhận thức khoa học dựa vào lý trí và phương pháp thực nghiệm có khả năng to lớn đối với việc nhận thức và cải tạo thế giới, theo chúng tôi, là hoàn toàn xác đáng.

Có thể nói rằng, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã tạo ra những điều kiện mới và khả năng mới cho sự phát triển của nhận thức khoa học, đồng thời, nó cũng đặt ra cho con người nói chung, mỗi chủ thể nhận thức nói riêng những yêu cầu cao hơn về tri thức, trí tuệ.

Sự tiếp cận một số vấn đề về nhận thức khoa học có ý nghĩa to lớn trong việc phân biệt nhận thức khoa học với nhận thức thông thường, cũng như với các thành phần trong cấu trúc của nó, đồng thời, góp phần ngăn ngừa, khắc phục một số thiếu sót' sai lầm có thể mắc phải trong quá trình nhận thức, như chủ nghĩa kinh nghiệm, nhận thức giản đơn, tư duy giáo điều.

Nguồn:
LinkedInPinterestCập nhật lúc: