Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu

01:30 CH @ Thứ Tư - 30 Tháng Mười Một, 2005
So sánh Đỗ Hoàng Diệu với Vệ Tuệ không chỉ là một sự khập khiễng - nó là cả một sự lố bịch. Chỉ có những ai chưa đọc Vệ Tuệ hay Đỗ Hoàng Diệu, hoặc chưa đọc cả hai, mới có thể đưa ra những nhận định như vậy. Hai nhà văn nữ này đi trên những con đường hoàn toàn khác nhau, cảm nhận thế giới bằng những giác quan khác nhau, dựa trên những phông văn hoá khác nhau, và sáng tạo ra những tác phẩm có những giá trị hoàn toàn khác nhau.

Vệ Tuệ là nhà văn của một nền văn hoá mới, trong một nước Trung Hoa mới - một nền văn hoá bourgeois đô thị hào nhoáng, một nền văn hoá “có thể không hay hơn, nhưng cũng khác” (1). Thế giới của cô là thế giới của các quán bar Thượng Hải, thơm mùi nước hoa CK hay Opium, của “những con bướm đêm” đung đưa túi xách Luis Vuitton, nhấm nháp rượu champagne, lái xe Audi đuổi theo những mối tình vô vọng. Vệ Tuệ gần gũi hơn nhiều với Françoise Sagan; giống như bà, cô là nhà văn của một thế giới phù phiếm, ích kỷ, lạnh lùng nhưng cũng tràn đầy cám dỗ của một nền văn minh đô thị vật chất.

Đỗ Hoàng Diệu là nhà văn của một nền văn chương già nua đang hấp hối. Thế giới quanh cô vẫn là thế giới u ám của làng quê Việt Nam hai mươi năm trước, với những bà mẹ chồng cay nghiệt, những cô em dâu lăng loàn, những ông chồng nhu nhược. Thế giới của cô là thế giới của một lớp công chức nhà nước già nua, với những công thức cliché cũ mèm về tình yêu nơi công sở được gia giảm liều lượng bằng sự hèn hạ của người đàn ông. Thế giới của Diệu nồng lên mùi mồ hôi của các nhân vật của cô không ngừng tuôn chảy, nơi nước là nguồn cứu rỗi duy nhất cho cuộc sống ngột ngạt và mặc váy màu hồng khi đi ngủ là thứ xa xỉ duy nhất mà nhà văn dám trao tặng cho nhân vật của mình - hãy xem cô đã mô tả một cách tự hào thế nào những chiếc váy ngủ màu hồng đó!

Vệ Tuệ là nhà văn của giới trẻ Trung Quốc, của một thế hệ đắm chìm trong phù hoa của những tiệc rượu kéo dài thâu đêm suốt sáng, hay trong ảo giác lúc nữa đêm sau khi dùng “e” (2). Nhưng đó cũng là thế hệ ngâm ngợi Allen Ginsberg, nghe Suede, hò nhau lật đổ Salvador Dali, thần tượng Virginia Woolf, đọc Milan Kundera và thấy mình trong những trang viết của Marguerite Duras. Đó là một thế hệ tiêu thụ đúng nghĩa, nhưng nó không chỉ tiêu thụ vật chất, nó cũng ngốn ngấu những giá trị tinh thần của một thế hệ phản kháng ở phương Tây những năm 60 của thế kỷ trước. Không đủ can đảm để hình thành một thế hệ phản kháng mới, nó đi tìm hình bóng của mình trong một cuộc nổi loạn về tinh thần của những người đi trước.

Đỗ Hoàng Diệu là nhà văn đại diện cho một lớp người trẻ lười biếng không mang trong mình một phông văn hoá nào đủ mạnh. Các nhân vật trong truyện ngắn của Diệu nghèo nàn đến lạ về cuộc sống tinh thần. Một lớp người sống lạc hậu và hời hợt cả về vật chất và tinh thần, sẽ bị xã hội ngày nay đẩy ra bên đường, một nhóm người mà với họ âm nhạc đồng nghĩa với Hành khúc Thổ Nhĩ Kỳ qua tiếng chuông của điện thoại di động, với những ám ảnh Trà hoa nữ thế kỷ thứ 18, kêu tên Chúa một cách vô lối để làm sang và hai tiếng “công ty” nghe kêu như tiếng “phù hoa”. Nếu họ không khâm phục một người đàn ông Trung Hoa có “thân hình rắn chắc tựa củ sâm” thì cũng là một anh chàng người Mỹ khù khờ nhưng lại biết nhiều thành ngữ tiếng Việt, và đỉnh cao của sự văn minh theo họ là một đám cưới ở khách sạn Hilton; hình như với họ, chỉ mấy từ trống rỗng “khách sạn Hilton” là đủ cho giấc mộng của một “hội chợ phù hoa”.

Vệ Tuệ viết về tình yêu, hay chính xác hơn, viết về một thế hệ trẻ khao khát đi tìm tình yêu trong thế giới vật chất, tìm thấy nó cả trong đổ vỡ, thất vọng, lạnh lùng. Hãy xem cô mô tả một cách trìu mến xiết bao những nhân vật nam của cô, cho dù đó là Cá Con, Bì Bì, Thiên Thiên hay Mark. Độ lượng cả với sự phản bội, gian trá và đôi khi cả lăng nhục, các nhân vật nữ của cô vẫn nhìn thấy một thứ “âm nhạc đa nhân tố” trong con người, nơi sự giả dối lạnh lùng hoà cùng với sự thuần khiết. TrongBảo bối Thượng Hải, trạng thái giằng xé “torn between two lovers” (3)của Coco, mối quan hệ kỳ lạ của cô với Thiên Thiên và Mark là sự giằng xé của cô với hai cuộc sống: cuộc sống vật chất và cuộc sống tinh thần. Thiên Thiên bất lực, nhưng bên anh, cô tìm thấy tình yêu của một con người “có đôi mắt của đứa trẻ, trí tuệ của thiên tài và tình yêu của một kẻ cuồng tín” (4), một sự gắn bó hoà hợp kỳ lạ về tâm hồn “nếu như chân phải của em đau, chân trái của anh sẽ nhức. Nếu hơi thở của em bị bóp nghẹt, anh cũng ngừng thở. Nếu em bán linh hồn cho quỉ, lưỡi dao cũng sẽ đâm vào ngực trái anh” (5). Mối tình song song của cô với Mark, người thoả mãn được những gì Thiên Thiên không làm được, luôn luôn nằm trong sự cay đắng giày vò của tình yêu thuần khiết của cô với Thiên Thiên.

Đỗ Hoàng Diệu viết về tình dục, trong cái nghĩa thấp kém của từ này. Đừng gán cho nhân vật của Diệu những tính từ to tát như “ám ảnh vì một thứ tội tổ tông”, hay “vấn đề của chị lớn hơn rất nhiều số phận đàn bà”, v.v… Đỗ Hoàng Diệu mạnh bạo hơn nhiều nhà văn khi đề cập đến tình dục, nhưng ngoài việc mô tả những “cú thúc từ phía sau”, những “bóp nát, bục vỡ, khoan sâu”, những bộ ngực cương cứng vì thèm khát, những cào cấu cắn xé, cô còn có gì? Những “âm thanh ập è sin sít”, “hơi thở đều đều vung vãi” của Thụ (“Bóng đè”), “mùi phù sa sông Hồng… sắp sửa trương thối” của chàng trai (“Vu quy”) “đầu cúi thấp, như con chó mới bị đánh đòn” của Trí (“Dòng sông hủi”)?… Trong những trang viết của chị, những người đàn ông nếu không đểu giả tàn ác (Công trong “Dòng sông hủi”), nham hiểm (người đàn ông Trung Hoa trong “Vu quy”) thì cũng đớn hèn (Trí trong “Dòng sông hủi”) hay nhạt nhẽo (Thụ trong “Bóng đè”) - hoàn toàn đối lập với một nhân vật nữ, trong truyện ngắn nào cũng được mô tả với cặp đùi dài miên man, bộ ngực căng tràn và sự “thông minh, nhạy cảm vô bờ” - (thứ mà thực ra nhà văn không hề chứng minh được trong các truyện ngắn của mình). Ngoài những dục vọng được mô tả một cách sống sượng và sự huyễn hoặc về mình, các nhân vật của Diệu hoàn toàn không có một cuộc sống tinh thần và tình yêu thương với con ngườI - những thứ tạo nên độ sâu cho văn học.

Có người nhắc đến chất feminist (nữ quyền) trong sáng tác của Đỗ Hoàng Diệu. Nhưng chủ nghĩa nữ quyền trước tiên là sự từ khước, từ khước cái mà các nhà nữ quyền gọi là nền văn hoá áp chế của đàn ông. Các nhà nữ quyền không khinh rẻ, nhưng họ từ khước những “thiết chế văn hoá” mà họ cho rằng tạo ra sự bất bình đẳng giữa nam và nữ. Virginia Woolf, nhà văn và nhà lý luận của chủ nghĩa nữ quyền viết: “Thật nguy hiểm cho người viết nào khi viết lại nghĩ về giới tính của mình”(6). Sáng tác của Đỗ Hoàng Diệu không có chút gì chung với chủ nghĩa nữ quyền -ngược lại thì đúng hơn. Càng hạ thấp các nhân vật nam, các nhân vật nữ của cô càng có vẻ quị luỵ trong một “thiết chế của đàn ông”, quị luỵ trong dục tính cần đến đàn ông mới có thể hiện hữu của mình. Vệ Tuệ cười vào mũi những người gọi cô là nhà văn theo chủ nghĩa nữ quyền. Mặc dù cô đã lấy lời của Lucy Stone, nhà tranh đấu cho quyền bình đẳng của phụ nữ thế kỷ thứ XIX làm đề từ cho chương cuối cùng của Bảo bối Thượng Hải: “Tôi chỉ là tôi, một phụ nữ, chứ không phải phần còn lại của thế giới” (7), nhưng câu hỏi cuối cùng của cuốn tiểu thuyết, khi “một cảm giác vừa dịu dàng vừa cay đắng tràn ngập, và trong phút chốc tôi không biết trả lời bà lão mệt mỏi và yếu ớt này ra sao” lại là, “phải, tôi thực sự là ai, tôi là ai?”. Câu hỏi cổ xưa như trái đất “tôi thực sự là ai” đau đáu trong tác phẩm đã khiến cô vượt lên những ràng buộc hào nhoáng của các thứ chủ nghĩa tân kỳ để trở thành một nhà văn viết cho con người, tìm kiếm những giá trị nhân bản của con người. Liệu chúng ta có tìm thấy câu hỏi đó trong các truyện ngắn của Đỗ Hoàng Diệu?

Đâu đó trong góc một quán bar mờ tối ở Thượng Hải, sau những giây phút điên cuồng, Vệ Tuệ vẫn thấy trong tiếng nhạc “vào lúc cao trào gần đến, tôi nhìn thấy bố đẻ của tôi, bố dượng của tôi (mong hai vị yên nghỉ dưới lòng đất), mẹ tôi, tay chơi ghi-ta của tôi, Mắt Đẹp của tôi, Bích của tôi, Mã Cách của tôi, từng người từng người bước lên sân khấu… Tôi yêu họ”.Thiếu đi tình yêu thương vô bờ bến, vô điều kiện với tha nhân, những truyện ngắn của Đỗ Hoàng Diệu chỉ vật vã trong sự huyễn hoặc ích kỷ về bản thân, một bản thân không có chiều sâu của cả văn hoá lẫn tình cảm.
1. Chữ dùng của Phan Triều Hải
2. Thuốc lắc, viết tắt của chữ Ecstasy
3. "Giằng xé giữa 2 người yêu” - tên một bài hát nổi tiếng đầu thập niên 80 của Mary McGregor
4. Shanghai Baby p. 242
5. Shanghai Baby p. 245
6. “It is fatal for anybody who writes to think of their sex”, Shanghai Baby p. 228
7. “I am just me, a woman, not some second sex” Shanghai Baby p. 259
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Sáng tác “Bóng đè”, phê bình “nói mớ”

    06/11/2005Nguyễn HoàTập truyện trình làng mang tên Bóng đè của nhà văn trẻ Đỗ Hoàng Diệu đã làm không ít nhà phê bình tốn giấy mực nhưng những ý kiến trái ngược nhau xem ra còn lâu mới đến hồi kết!
  • Phỏng vấn một nhà văn nữ trẻ

    22/10/2005Lê Thị Liên HoanPV: Thưa cô, có người kêu Bóng đổ là một tác phẩm nói nhiều đến tình dục?
    Nhà văn nữ: Rõ ràng.
    PV: Tại sao cô lại thản nhiên đến thế?
    Nhà văn nữ: Tại vì tôi hiểu rất nghiêm túc: không phải cứ tình dục là khiêu dâm...
  • Đỗ Hoàng Diệu: “Tôi viết đúng với những gì mình có”

    04/10/2005Thể thao văn hoáNhững người yêu văn học, những người sốt ruột chờ sự đổi mới của văn học Việt Nam thời gian gần đây hay kháo nhau về cái tên Đỗ Hoàng Diệu. "Viết lạ lắm, bạo lắm! Đọc đi!" là cái câu được nhắc đi nhắc lại ở nhiều nơi. Cũng có người đơn giản hơn, chỉ nói: Văn rất sếch-xy... thế là đủ gợi tò mò cho hàng trăm độc giả vốn thừa háo hức với đời sống văn chương không có nhiều cái mới lạ như hiện nay...
  • Đỗ Hoàng Diệu thích đẹp hơn giỏi

    04/10/2005Trong cái bàng bạc của văn chương VN hiện nay, một vài gương mặt mới đã xuất hiện, không quá mới nhưng sáng tác của họ cũng khiến những người đang ngái ngủ phải giật mình. Đỗ Hoàng Diệu là một trong số đó....
  • Lớn hơn số phận đàn bà...

    04/10/2005Nguyên NgọcThường có một câu hỏi: Nhà văn viết bằng trực cảm hay bằng ý thức hoàn toàn tỉnh táo? Tôi nghĩ có lẽ bằng cả hai. Và cũng có lẽ một trong những dấu hiệu đáng tin cậy để nhận ra một tài năng văn học là đọc họ ta cảm thấy cứ như bằng trực cảm, bằng một thứ ăngten riêng, dường như họ nhận ra được và truyền đến cho chúng ta những nghiền ngẫm sâu thẳm về con người, xã hội, về đất nước, thậm chí về số phận dân tộc, mà chính bằng luận lý họ lại cũng không nói ra cho rõ được...

Nội dung khác