Đường lối giáo dục cứu nước của Đông Kinh Nghĩa Thục
Giáo dục cứu nước (GDCN) là lựa chọn quan trọng nhất của các sĩ phu sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT) khi họ quyết định đường lối đấu tranh giải phóng nước nhà của tổ chức cách mạng này. Trước đó, tất cả các cuộc đấu tranh chống Pháp đều theo đường lối bạo động vũ trang.
1. Do đâu mà có đường lối giáo dục cứu nước ?
Đường lối GDCN nảy sinh từ sự nhận thức một chân lý ngày ấy không phải ai cũng biết : lực lượng quyết định sự nghiệp giải phóng tổ quốc là nhân dân chứ không phải là vua quan hoặc giới sĩ phu. Quốc dân độc bản (QDĐB), sách giáo khoa chính của ĐKNT viết: “Nước làm sao có thể tự mạnh hay yếu được ! Nước mạnh hay yếu là do dân. Chưa hề có dân yếu mà nước mạnh. Muốn nước được bình trị mà mong ở vua hiền tướng giỏi thì không bằng mong ở dân mạnh. Dân mạnh thì nước yếu có thể chuyển thành mạnh và mạnh lâu dài”.Đây là một quan điểm rất tiến bộ ngày ấy, khi phần lớn các lãnh tụ Cần vương hoặc sĩ phu yêu nước đều một mực trông đợi triều đình đứng ra chống Pháp mà chưa ai thấy nhân dân mới là lực lượng quan trọng nhất. Các yếu nhân ĐKNT cũng nhận thức được một sự thật là do nhân dân ta chưa được thức tỉnh, chưa hiểu rằng mình có nghĩa vụ cứu nước chống xâm lược, vì thế các cuộc đấu tranh chống Pháp đều chưa có sự tham gia của toàn dân; hậu quả là nước ta mất vào tay thực dân Pháp.
Hải ngoại Huyết thư (1906) của Phan Bội Châu vạch rõ: “Nước ta mất bởi vì đâu ?/ Tôi xin kể hết mấy điều tệ nhân/ Một là vua, sự dân chẳng biết/ Hai là quan chẳng thiết gì dân/ Ba là dân chỉ biết dân/ Mặc quân với quốc, mặc thần với ai”. QDĐB viết: “Dân nước ta không có quyền chính trị… Dân ta không biết nước là gì, nghe ai bàn việc nước thì bịt tai bỏ chạy. Than ôi, lo không gì lo hơn mất nước… Nước ta chưa hề biết đoàn kết tất cả mọi người trong nước để giúp nhau chống lại bọn lăng nhục ta.” Một tài liệu khác của ĐKNT là Việt Nam vong quốc nô phú viết: “Than ôi! Kẻ làm mất nước Việt chính là người Việt … Ôi! Giả thử dân Việt Nam tự yêu nước mình thì ta đủ sức phục thù …” Tóm lại, cái cần nhất bấy giờ là tinh thần yêu nước. Có yêu nước thì mới dám cứu nước ! Để làm cho dân ta biết yêu nước, chỉ có một cách duy nhất là giáo dục, giác ngộ họ.
Tại sao dân ta chưa tha thiết cứu nước? Các yếu nhân ĐKNT cho rằng đó là do dân ta chưa được hưởng chút nào quyền làm chủ đất nước, do dân ta ngu dốt vì không được học để hiểu rằng mình là chủ đất nước. Đây là một sự thật: người dân không thể yêu một đất nước mà mình không được hưởng bất cứ quyền lợi nào từ đất nước ấy. Một thày giáo ĐKNT viết: “Bao nhiêu khổ sở nhục nhằn ở nước Nam ta cũng vì cái dốt mà ra cả”. Một bài ca của ĐKNT sáng tác là Bài hát nói về sự ăn uống viết: “Ngu sao ngu thế là ngu/ Ngán sao ngán vậy, ngán cho dân mình/ Xin ai cũng quyết tình bỏ dứt/ Gương văn minh chém đứt cho xong”. QDĐB viết: “Dân nước văn minh xem việc nước như việc nhà. Nước mạnh thì dân mừng, yếu thì dân lo. Hãy làm cho nước ta ngày càng văn minh, kế ấy là của nước, cũng là của bản thân ta…”.
Nói cách khác, trước hết cần phải làm cho nước Việt Nam trở nên văn minh, nghĩa là người dân được quyền làm chủ đất nước, biết coi việc nước như việc nhà, trong đó có việc bảo vệ tổ quốc. Một khi toàn dân ta đều đồng lòng chống ngoại xâm thì nước ta chưa chắc đã mất nước, hoặc mất rồi nhưng vẫn có thể cứu được. Đúng vậy, dưới chế độ phong kiến triều Nguyễn, người dân không có mảy may quyền lợi nào, vua quan coi đất nước này là của họ, dân chúng là kẻ nô lệ bị vua quan, địa chủ bóc lột tận xương tủy, đến quyền sống cơ bản nhất còn bị tước đoạt, nói gì tới quyền làm chủ đất nước; nước có bị Pháp chiếm thì họ vẫn bị áp bức bóc lột như cũ; vì thế dân ta chưa đồng lòng chống xâm lược Pháp. Hiểu được chân lý này là một tiến bộ vô cùng đáng khâm phục thời ấy.
Từ nhận thức đó, các sĩ phu ĐKNT thấy việc cần làm trước nhất phải là phải thức tỉnh dân ta, nâng cao dân trí, làm cho nước ta văn minh tiến bộ. Văn minh tân học sách (sách có tính chất cương lĩnh của ĐKNT) viết: muốn nước mình cũng văn minh và giàu mạnh thì ta “phải nhờ có một chủ nghĩa lớn … là chủ nghĩa mở trí khôn cho nhân dân”. Nghĩa là phải làm cho dân cả nước đều được học, học yêu nước, học kiến thức cần nhất để làm người công dân, tức người dân biết mình có nghĩa vụ và quyền lợi gì đối với tổ quốc.
Nói cách khác, để cứu nước, trước hết phải dùng biện pháp giáo dục toàn dân, và nội dung giáo dục phải quán triệt chủ đề yêu nước, cứu nước. Với quan điểm đó, các sĩ phu tiên tiến quyết định xin mở trường ĐKNT.
Việc đề xuất tư tưởng GDCN là kết quả quá trình suy nghĩ lâu dài của các sĩ phu tiên tiến Bắc Hà. Hầu hết họ sinh trưởng tại Hà Nội hoặc vùng lân cận thuộc miền Bắc VN giáp giới Trung Quốc, các tân thư và báo chí tiến bộ chữ Hán của TQ truyền sang nước ta trước hết đều vào miền Bắc, tới Hà Nội, đem theo tư tưởng duy tân của Nhật Bản và TQ. Tấm gương Nhật Bản trước đây cũng lạc hậu như ta, chỉ nhờ biết sớm nâng cao dân trí mà tiếp thu được văn minh phương Tây, làm cho “quốc phú binh cường”, đánh thắng các cường quốc lớn, đã tác động rất lớn đến các sĩ phu ta. QDĐB viết: “Nước Nhật chỉ có 43 huyện mà có đến 26.824 trường tiểu học. Nước ta hơn 30 tỉnh, hơn 500 huyện mà chưa nghe ai nói tới mở trường. Than ôi ! Chẳng phải là đáng giận lắm sao ?” Khi đưa ra sự so sánh này, các yếu nhân ĐKNT đã nhận thấy sở dĩ nước Nhật tiến lên con đường văn minh giàu mạnh là do họ đã coi trọng việc giáo dục toàn dân.
Nhờ đọc tân thư mà các sĩ phu nảy ra ý tưởng mới, thấy rõ nền giáo dục khoa cử không giúp ích gì cho sự nghiệp cứu nước, muốn giải phóng dân tộc thì trước hết phải nâng cao dân trí, muốn vậy dứt khoát phải thực thi một nền giáo dục mới. Hầu hết các sĩ phu ĐKNT ngày ấy đều trẻ (Dương Bá Trạc 23, Nguyễn Hữu Cầu 28…già nhất Lương Văn Can 53 tuổi) và có học vấn cao, nhờ đó họ nhanh chóng tiếp thu tư tưởng duy tân, gặp nhau bàn bạc, đồng tâm nhất trí tiến tới quyết định xin mở trường ĐKNT để thực hiện ý tưởng giáo dục cứu nước của mình.
2. Giáo dục cứu nước là đường lối đấu tranh khôn ngoan, khả thi nhất trong tình hình thực tế nước ta đầu thế kỷ XX.
Cái chết của lãnh tụ Cần Vương Phan Đình Phùng năm 1896 đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ đấu tranh vũ trang chống Pháp xâm lược. Trên thực tế, nước ta ngày ấy không còn một lực lượng nào đủ sức chống nổi quân đội Pháp, mọi cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp đều chưa có khả năng giành thắng lợi.
Sau khi bình định xong nước ta, thực dân Pháp bắt đầu củng cố chính quyền chiếm đóng, đẩy mạnh khai thác bóc lột Việt Nam. Nhằm mục tiêu đó, chúng thi hành đường lối “khai hóa dân bản xứ”, trong đó có việc mở các trường đào tạo người Việt làm việc cho Pháp. Năm 1896 chúng mở trường Thông ngôn và các trường tiểu học dạy quốc ngữ và tiếng Pháp.
Khôn ngoan lợi dụng chủ trương đó của Pháp, các sĩ phu tiên tiến đã làm đơn xin mở trường ĐKNT, và chính quyền Pháp không có cớ từ chối; nhờ vậy họ có điều kiện tiến hành cuộc đấu tranh chống Pháp một cách công khai hợp pháp ngay giữa thủ đô, với quy mô ngày một mở rộng. ĐKNT trở thành cái lò đào tạo người dân yêu nước, đã thổi bùng ngọn lửa yêu nước của dân ta và ngọn lửa ấy đã lan ra khắp nước. Chỉ trong 9 tháng, tổng cộng đã có hơn 8000 người trực tiếp học ở trường ĐKNT. Các sĩ phu khắp nơi kéo về thăm ĐKNT, ai nấy đều phấn khởi ủng hộ. Thái Bình, Hà Đông cũng lập ra ĐKNT của mình. Câu thơ: Trường Nghĩa Thục đứng đầu dạy dỗ/ Khắp ba mươi sáu phố Hà thành/ Gái trai nô nức học hành/ Giáo sư tám lớp, học sinh non ngàn… và Buổi diễn thuyết người đông như hội/ Kỳ bình văn khách tới như mưa cho thấy ĐKNT thực sự là sự kiện văn hóa chính trị sôi động nhất nước ta đầu thế kỷ XX. Sau khi ĐKNT Hà Nội bị cấm, các phân hiệu ở ngoại tỉnh vẫn hoạt động một thời gian nữa. Tính công khai hợp pháp đã giúp ĐKNT phát huy được ảnh hưởng sâu rộng nhất trong nhân dân.
Rõ ràng, khi chênh lệch lực lượng quá bất lợi cho dân tộc ta mà tiến hành đấu tranh vũ trang thì chỉ làm lực lượng cách mạng bị tổn thất; việc có thể làm lúc đó chỉ là chuẩn bị lực lượng quần chúng, chờ thời cơ thuận lợi. Việc mở trường ĐKNT nhằm thức tỉnh nhân dân, giáo dục tinh thần yêu nước và cứu nước, đào tạo, chuẩn bị lực lượng quần chúng cho các phong trào chống Pháp là biện pháp đúng đắn khả thi duy nhất thời ấy.
Đầu thế kỷ XX, giai cấp tư sản và vô sản Việt Nam đều còn nhỏ bé chưa đủ sức tự tổ chức các cuộc đấu tranh chống Pháp. Chủ nghĩa Mác chưa đến Việt Nam nên giai cấp vô sản chưa thể có vai trò gì trên chính trường. Nhưng cuộc đấu tranh chống Pháp xâm lược thì vẫn cần tiếp tục. ĐKNT là bước đi tiếp theo hợp quy luật trên con đường trường chinh giải phóng dân tộc ta sau các cuộc khởi nghĩa của giới sĩ phu Cần vương.
3. Đường lối giáo dục cứu nước được ĐKNT thực hiện ra sao ?
Nội dung yêu nước, cứu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi hoạt động của ĐKNT. Không một tài liệu giảng dạy và tuyên truyền nào không giáo dục lòng yêu nước cho học viên và quần chúng. Sách Nam quốc địa dư viết: “Xin có lời kính cáo đồng bào rằng: người nước ta không thể không yêu nước mình. Muốn thế trước hết xin hãy học địa dư nước ta”.Bài hát yêu nước có câu kết: “Làm cho rạng rỡ ông cha/ Có lòng yêu nước mới là người Nam”. Bài kêu gọi Phật tử viết: “Phen này cắt tóc đi tu/ Tụng kinh Độc lập, ở chùa Duy tân/ Đêm ngày khấn vái chuyên cần/ Cầu cho ích quốc lợi dân mới là/ Tu sao mở trí dân nhà/ Tu sao độ được nước ta phú cường”. Những áng văn yêu nước bất hủ như Đề tỉnh quốc dân ca, Thiết tiền ca…dạy trong trường nhanh chóng truyền ra khắp nước, thức tỉnh dân ta. Lê Đại dịch Hải ngoại Huyết thư từ chữ Hán ra quốc văn theo thể thơ song thất lục bát dễ nhớ, nhờ đó lời kêu gọi cứu nước thống thiết của Phan Bội Châu dễ dàng đến với đồng bào ta: “Hòn máu uất chất quanh đầy ruột/ Anh em ơi, xin tuốt gươm ra… Cờ độc lập xa trông phấp phới/ Kéo nhau ra đòi lại nước nhà”. Một bài ca của ĐKNT Thái Bình viết: “Thương ôi nước mất nhà tan/ Dưới sông máu chảy, trên ngàn xương phơi …/Thương ôi một cõi giang san/ Người nhiều đất rộng, kho tàng sạch không/ Đồng bào hỡi, liệu thời đứng dậy !” Nghe những lời tâm huyết ấy người nào không xúc động ?
Hội quán ĐKNT treo một tấm bản đồ tổ quốc lớn chưa từng có, bà con lũ lượt kéo nhau đến xem, ai cũng rạo rực tình yêu đất nước. Các buổi bình văn thơ, diễn thuyết đều nhằm kích động lòng tự tôn dân tộc và yêu nước. Diễn giả chỉ bình các văn thơ yêu nước bất hủ như Kêu hồn nước, Tỉnh quốc hồn ca, Hải ngoại huyết thư … của các chí sĩ cách mạng đáng kính, do đó thu hút rất đông người nghe. Có buổi diễn thuyết bị cảnh binh Pháp giải tán và diễn giả bị chúng thẩm vấn, như buổi Dương Bá Trạc diễn thuyết ở đền Ngọc Sơn chiều ngày rằm tháng Giêng năm Đinh Mùi (1907).
Một thành công rất lớn của tư tưởng GDCN là ĐKNT đã làm cho đồng bào ta chấp nhận chữ quốc ngữ trở thành chữ viết chính thức của nước ta, thay cho chữ Hán dùng suốt hơn nghìn năm qua. Thực ra trước đó mấy thập kỷ, thực dân Pháp đã mở các trường dạy chữ quốc ngữ nhằm mục đích phổ biến các thông cáo, luật lệ của chính quyền, nghĩa là để củng cố nền cai trị của Pháp, nhưng chủ trương đó bị các nhà Nho yêu nước chống lại kịch liệt, tiêu biểu là Nguyễn Đình Chiểu, cho nên việc dạy chữ quốc ngữ ấy không thực hiện được. Thế nhưng khi ĐKNT đề xướng học chữ quốc ngữ là yêu nước, “không bỏ chữ Hán thì không cứu được nước Nam !” (lời Phan Chu Trinh), “Chữ quốc ngữ là hồn trong nước/ Phải đem ra tính trước dân ta/ sách các nước, sách Chi-na/ Chữ nào nghĩa ấy dịch ra tỏ tường” (Bài ca khuyên học chữ quốc ngữ) thì các nhà Nho tán thành ngay, đồng bào ta hưởng ứng ngay, người người bảo nhau học chữ quốc ngữ.
Dân ta vốn giàu lòng yêu nước; một khi tình cảm thiêng liêng đó được kích động, nó lập tức bùng cháy và lan ra khắp nơi không thể dập tắt được. Giáo dục là biện pháp tốt nhất khêu gợi được tình cảm đó, nhất là khi biện pháp ấy được tiến hành công khai giữa thủ đô Hà Nội. Giáo dục có tác dụng ngấm sâu lan xa trong lòng người; tác động đó được truyền đi qua nhiều nghìn người đã học ở trường ĐKNT, đã dự các buổi diễn thuyết, bình văn, đọc báo, đã được đọc các sách báo, nghe các văn thơ truyền miệng; nhờ đó ĐKNT đã có tác động rất lớn trong việc thức tỉnh dân chúng, chuẩn bị lực lượng cho các cao trào đấu tranh chống Pháp sau này. Trước tình hình ấy, thực dân Pháp cuống lên đối phó: trước tiên chúng vội vã mở một loạt trường học để cạnh tranh với ĐKNT, như trường Tân Quy (bắt chước cách tổ chức của ĐKNT), trường Đại học Đông Dương; song cả 2 trường này đều chết yểu; vì thế chúng vội vã cấm và đàn áp ĐKNT, mặc dù chính chúng đã cho phép trường hoạt động.
4. GDCN với đường lối giải phóng dân tộc của hai nhà cách mạng họ Phan
Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh là hai nhà cách mạng có ảnh hưởng nhất ở nước ta đầu thế kỷ XX. Phan Bội Châu theo xu hướng đấu tranh vũ trang và chủ trương dựa vào ngoại viện từ Nhật Bản, duy trì chế độ quân chủ. Phan Chu Trinh theo xu hướng cải cách ôn hòa dựa vào Pháp, chủ trương lập chế độ cộng hòa. Tuy sách lược trái nhau nhưng khi thấy các sĩ phu sáng lập ĐKNT đưa ra chủ trương GDCN, hai cụ đều lập tức ủng hộ và khuyến khích họ. Đây là một điểm rất đáng bàn.
Ngay từ trước khi mở trường ĐKNT, hai cụ Phan đã quan tâm tới chủ trương GDCN của nhóm sĩ phu này và từng nhiều lần trực tiếp gặp họ bàn bạc, vì hai cụ từng sang Nhật tham quan trường Khánh Ứng Nghĩa Thục của Phúc Trạch Dụ Cát và thấy rõ tác động to lớn sâu xa của giáo dục quốc dân trong việc làm cho dân giàu nước mạnh. Năm 1906, Phan Bội Châu từ Nhật về nước có gặp các sĩ phu ĐKNT đang họp ở Bắc Ninh. Các văn thơ của cụ như Hải ngoại Huyết thư, Nam Hải bô thần ca được ĐKNT dùng làm tài liệu tuyên truyền giảng dạy. Các yếu nhân ĐKNT đều bí mật tham gia hoạt động đấu tranh vũ trang và Đông Du của cụ. Phan Châu Trinh tích cực diễn thuyết cổ động cho ĐKNT, một số thơ văn của cụ được ĐKNT dùng để giảng dạy. Sử gia Chương Thâu nhận định: ĐKNT ngày càng tiến dần đến xu hướng bạo động của Phan Bội Châu, ngày càng xa lìa xu hướng cải lương ôn hòa của Phan Châu Trinh.
Sự khuyến khích, ủng hộ của hai nhà đại cách mạng họ Phan đối với ĐKNT càng chứng tỏ đường lối đấu tranh chống Pháp của ĐKNT là đúng đắn, hợp thời cuộc.
5. Giáo dục cứu nước kết hợp với hành động triệt để chống thực dân Pháp
Các yếu nhân ĐKNT không chỉ đơn thuần hoạt động trên lĩnh vực giáo dục, xã hội theo xu hướng cải lương ôn hòa công khai hợp pháp mà họ đều bí mật tham dự các hoạt động bạo động triệt để chống Pháp như phong trào Đông Du, “Đầu độc Hà Thành” v.v…– đây chính là lý do về sau thực dân Pháp kết án họ rất nặng. Lê Đại, Nguyễn Quyền ... bị bắt do có liên quan tới vụ “Hà thành đầu độc” năm 1908 ; vụ đầu độc lính Pháp này có sự liên hệ chặt chẽ giữa Đề Thám, Phan Bội Châu và ĐKNT với nhau. Sau khi ĐKNT bị đóng cửa, Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Cảnh Lâm ... vẫn bí mật tổ chức đưa các thanh niên ưu tú ra nước ngoài học làm cách mạng cho tới khi có kẻ phản bội tố giác khiến các cụ bị bắt. Một số yếu nhân ĐKNT còn cố gắng xây dựng một xưởng chế tạo vũ khí nhỏ gần Hà Đông và tổ chức thanh niên luyện tập quân sự ... Thực tế cho thấy, hoạt động cải cách văn hóa giáo dục của ĐKNT chỉ là mặt hoạt động công khai, còn về thực chất các sĩ phu ĐKNT đã lợi dụng hình thức hợp pháp để tiến hành các hoạt động bí mật nhằm lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp. Sử gia Chương Thâu nhận xét : phong trào ĐKNT đề ra duy tân trước, “nhưng duy tân cải cách tư tưởng, văn hóa, xã hội ... không có nghĩa là từ bỏ con đường cách mạng”. ĐKNT đã kết hợp được cả hai xu hướng cứu nước đầu thế kỷ XX là cải cách và bạo động, có xu hướng đi đến kết hợp với phong trào đấu tranh vũ trang của Phan Bội Châu và Đề Thám ngày càng tiến gần đến xu hướng bạo động, là xu hướng tiến bộ nhất của thời đại. Đây là lý do tại sao ĐKNT hoạt động mới được 9 tháng đã bị thực dân Pháp đóng cửa, tiếp đó chúng đàn áp dã man các yếu nhân ĐKNT, tất cả đều bị chúng bỏ tù và kết án nặng tới tử hình, đều bị đày biệt xứ ra Côn Đảo. Sự thật đó chứng tỏ tư tưởng duy tân của ĐKNT là duy tân có tính cách mạng, không chỉ là cải cách hòa bình, càng không phải là cải lương nửa vời.
6. Tư tưởng GDCN với công tác giáo dục ngày nay
Đầu thế kỷ XX, lần đầu tiên ở Việt Nam, ĐKNT đề xướng giáo dục là quốc sách để cứu đất nước ra khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Quan điểm đó hiện nay vẫn còn nguyên tính thời sự, nhưng nhiệm vụ “cứu nước” hiện nay là cứu nước nhà ra khỏi tình trạng kém phát triển. Nhiệm vụ này hết sức nặng nề và chủ yếu sẽ do lớp thanh thiếu niên thực thi. Giáo dục phải được coi là quốc sách cơ bản nhằm thực hiện nhiệm vụ đó.
Muốn vậy, nền giáo dục nước ta phải hết sức coi trọng việc trau dồi tinh thần yêu nước cho toàn dân, trước hết là thanh thiếu niên. Cả xã hội ta hiện đang lao vào học tập với nhiệt tình rất cao; ai nấy đều coi trọng giáo dục; dù khó khăn đến đâu người ta cũng cố gắng cho con vào đại học. Tuy vậy dường như lâu nay nội dung yêu nước và mục tiêu “cứu nước” chưa được đề cao đúng mức trong công tác giáo dục, chưa được các sách giáo khoa nhắc tới nhiều như trước. Không ít người coi đi học (nhất là học đại học ) chỉ là để kiếm sống hoặc nâng cao địa vị và thu nhập cho riêng mình; ngày càng ít người học tập với động cơ vì dân vì nước. Vì thế mà xuất hiện khá phổ biến tình trạng gian lận trong học tập và thi cử. Tư tưởng “khoa cử” ngày xưa lại có chỗ dung thân, học chỉ để đối phó thi; thi trở thành khâu quyết định công ăn việc làm; bằng cấp là chỗ dựa để tiến thân. Nạn mua bằng, thuê người thi hộ, làm hộ luận án, ăn cắp luận án v.v.. khá phổ biến.
Tại sao cũng là người châu Á, nhưng người Nhật Bản và Hàn Quốc có rất ít các tiêu cực trong giáo dục ? Đó chủ yếu là do họ có tinh thần dân tộc rất cao, trong bất cứ việc gì họ cũng trước hết nghĩ tới dân tộc, đất nước, luôn nung nấu quyết tâm không chịu để nước mình thua kém ai. Tinh thần tự cường ấy bắt nguồn từ tình yêu nước sâu sắc.
Phải chăng thời gian qua chúng ta chưa coi trọng dạy học sinh phải học tập vì một lý tưởng cao cả hơn – vì nước, vì dân ? Yêu nước, yêu dân tộc là những tình cảm cao cả trong sáng, nước nào, thời đại nào cũng cần. Rõ ràng, nếu mọi người đều học tập với động cơ vì nước vì dân thì khó có thể có những hiện tượng tiêu cực trong giáo dục.
Điều cần thiết hiện nay là phải lồng nội dung yêu nước vào mọi hoạt động giáo dục ở mọi cấp, vào tất cả sách giáo khoa. Dĩ nhiên, việc giáo dục tinh thần yêu nước phải hết sức khéo léo, không sống sượng, phải dùng nhiều hình thức linh hoạt dễ tiếp nhận, như trong các hoạt động ngoại khóa, dưới các hình thức văn nghệ, ca hát, sinh hoạt tập thể, hoạt động công ích v.v… Thiết nghĩ đó sẽ là một biện pháp cơ bản nhằm hoàn toàn chấm dứt tình trạng tiêu cực trong ngành giáo dục và góp phần đẩy nhanh nước nhà tiến lên văn minh, hiện đại.
Tài liệu tham khảo chính
1. ĐKNT và phong trào cải cách văn hóa đầu thế kỷ XX. Chương Thâu. NXB Hà Nội, 1982;
2. Văn thơ ĐKNT. NXB văn hóa, Cục Lưu trữ Nhà nước Việt Nam, Viện Viễn đông Bác cổ Pháp đồng xuất bản, Hà Nội, 1997.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuBệnh sùng bái thần tượng và sự rối loạn của giáo dục
05/04/2019Hư học hư làm, hư tài
16/04/2014Tôi sợ nhất là cái "văn hoá" phi văn hoá, phản văn hoá
29/04/2018Phan Thắng (thực hiện)Có khi bi quan khi nhìn vào thực trạng văn hóa
12/04/2016Hồng Thanh Quang (thực hiện)7 nguyên tắc sống bất di bất dịch của Đại bàng
24/12/2015