Hành trình tìm Minh triết - Thượng Đế hằng sống và "lập trình" thế gian

11:07 SA @ Thứ Tư - 16 Tháng Chín, 2015

Nhà nghiên cứu Ngô Sỹ Thuyết: “Thượng Đế tồn tại và Ngài là Nhà lập trình vĩ đại nhất, vũ trụ là công trình sáng tạo vĩ đại của Ngài, là đồ án được Ngài thiết kế và triển khai, giám sát một cách hoàn toàn tự động bằng phần mềm “Chương trình Tạo hoá”...

PHẦN A: HÀNH TRÌNH TÌM MINH TRIẾT

I- Vũ trụ, vạn vật dường như đã được “lập trình”

Tôi là dân IT, chuyên về lập trình. Từ cuối những năm 90, tôi đã nhận thấy rằng, tin học là thứ rất quan trọng, mọi lĩnh vực đều có thể là đối tượng phục vụ của công nghệ thông tin. Nói cách khác, có thể tin học hoá mọi lĩnh vực trong xã hội, các phần mềm tin học đã và sẽ được dùng mọi nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực và ngày càng tinh vi hiện đại. Những năm sau đó, khi có thời gian nghiên cứu về triết học, văn hoá, tôn giáo,.. tôi lại thấy rằng ngoài những chương trình phần mềm (do con người lập) có trong những chiếc máy tính hay thiết bị điện tử thì “sự lập trình” (của thiên nhiên) dường như hiện hữu ở khắp nơi quanh ta trong mỗi cái cây, ngọn cỏ hay muôn loài động, thực vật.

Trong mỗi hạt cây chắc chắn phải có một “bản thiết kế” hoặc một “chỉ dẫn trỏ tới một bản thiết kế” giống như một phần mềm (software/programe) nào đó đã được mã hoá để sẵn sàng cho một sự nảy mầm và phát triển trở thành một cái cây hoàn chỉnh và chính cái software này (được kích hoạt từ khi nảy mầm) lại tiếp tục quản lý, giám sát toàn bộ quá trình sinh trưởng của cây đó một cách tinh vi và tài tình. Bản sao (copy) của bản thiết kế lại được chép (copy) vào những hạt giống ở các thế hệ sau đó. Các nhà sinh học đã giúp tôi hình dung và hiểu được phần nào thứ “ngôn ngữ lập trình” của thiên nhiên qua chiếc thang xoắn ADN bằng sự tổ hợp, lắp ghép, sắp xếp theo một trật tự, “cú pháp” nào đó của 4 chất bazơ A, T, G, C giống như 4 viên gạch cơ bản có trong mọi sinh vật sống (từ hạt mù tạt, cỏ cây hoa lá cho đến con giun cái kiến và cả con người chúng ta). Chiếc thang xoắn ADN giống như những đoạn mã lệnh (code) của một phần mềm tin học vậy, chỉ cần một chút ít thay đổi về trật tự của các kí tự, hoặc của một giá trị/ hằng số (contstant) là sự hoạt động của phần mềm đã thay đổi nhiều khi rất lớn. Có thể coi ADN như là Ngôn ngữ lập trìnhcủa Tạo hoá cho sự sống!.

Chúng ta có thể cảm nhận được sự kỳ diệu trong chính mình, thật vậy, cơ thể mỗi người có chừng 80.000 tỉ tế bào các loại, mỗi tế bào là một hệ thống vô cùng phức tạp vậy mà chúng vẫn được kiểm soát, quản lý một cách chặt chẽ, tinh vi, tài tình và hoàn toàn tự động, và do vậy, phải có một “chương trình phần mềm” (software) nào đó đã được kích hoạt và chạy bền bỉ từ lúc trứng được thụ thai cho đến khi ta từ giã cõi đời. 80.000 tỷ tế bào mà không cái nào bị bỏ sót, thực là kính sợ cái vi diệu của Tạo hoá, tôi hình dung mỗi tế bào đều có một ID, một mã số riêng và chính chương trình phần mềm quản lý cơ thể đã sử dụng thường xuyên để cập nhật, trao đổi thông tin dữ liệu về tình trạng mọi lúc của mỗi tế bào về bộ xử lý trung tâm CPU. Có điều tôi còn băn khoăn là tại sao, chỉ với 23 nhiễm sắc thể của người cha và 23 nhiễm sắc thể của người mẹ lại chứa đựng nhiều thông tin di truyền đến vậy. Phải chăng mỗi chúng ta không phải là một chiếc siêu PC đơn lẻ mà khi mới hình thành trong lòng mẹ đã được “nối mạng” với siêu máy tính vũ trụ? Và có câu “Cha sinh con, Trời sinh tính” là vì vậy.

Gần đây, trong khi nghiên cứu về Minh Triết tôi có đọc cuốn sách “The grand Design” (Cuộc đại thiết kế) của Stephen Hawking và Leonard Mlodinow và cuốn “Triết lý tôn giáo” của William S. Sahakan và Mabel Sahakan tôi đã phải thốt lên rằng: “Thượng Đế tồn tại và Ngài là Nhà lập trình vĩ đại nhất, vũ trụ là công trình sáng tạo vĩ đại của Ngài, là đồ án được Ngài thiết kế và triển khai, giám sát một cách hoàn toàn tự động bằng phần mềm “Chương trình Tạo hoá”.

Có được phát hiện này là do tôi nỗ lực đi tìm kiếm cái CHUNG NHẤT, cái BẢN CHẤT, cái TỰ TÍNH, cái BẢN THỂ, cái ĐẠO, cái CƠ TRỜI, cái THÁI CỰC,… mà ai cũng có thể cảm nhận được sự tồn tại trong lòng các sự vật, hiện tượng mà không thể mô tả hay gọi tên được.

Từ việc nhận thức thế giới sự vật hiện tượng qua lăng kính của dân IT tôi tin rằng chúng ta có thể sử dụng hệ thống khái niệm và tri thức của khoa học máy tính và công nghệ thông tin để giải thích, diễn giải hầu hết mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong vũ trụ. Một điều thú vị là 20 năm trước, khi viết cuốn “Lược sử thời gian” (A brief history of time, 1987) S.Hawking còn tin rằng có Thượng Đế nhưng khi viết “The grand Design, 2010” ông lại quả quyết rằng triết học đã chết và “Vũ trụ hình thành không cần đến Chúa”. Ở đây, tôi thấy được những mâu thuẫn và khiếm khuyết trong lập luận của S.Hawking trong cuốn “The grand Design” cũng như một số phát biểu gần đây của ông về Thượng Đế và Vũ trụ. Một trong những khiếm khuyết đó là ông đã bỏ qua mối liên hệ về thông tin giữa mỗi cá nhân với không gian thông tin toàn thể của vũ trụ (trí tuệ vũ trụ), chúng ta được “nối mạng” online với “siêu máy tính vũ trụ”, giống như mỗi tế bào trong cơ thể chúng ta được kết nối để trao đổi thông tin với bộ xử lý trung ương (CPU) trong trí não của mỗi người.

Tôi trở nên có Đức tin về Thiên nhiên, về Tạo hoá còn do lòng trắc ẩn và sự nhạy cảm của bản thân về sự lập trình phần mềm, về những điều chúng ta có thể học được ông Trời trong cách lưu trữ, quản lý, xử lý thông tin số liệu là những hoạt động bình thường, phổ biến trong nền kinh tế tri thức. Tôi có thể chứng minh, mô phỏng những điều mình nói bằng chính những thành quả khoa học kỹ thuật của nhân loại và sản phẩm phần mềm đặc biệt của chúng tôi, vì vậy tôi không sợ trở thành người quá “duy tâm, chủ quan”. Tôi sử dụng tri thức và những thành tựu của khoa học công nghệ để làm phương tiện và sở cứ cho luận thuyết của mình một cách nhất quán.

Việc “phát hiện” ra có Ông Trời chẳng phải là điều gì mới mẻ, cái chính là phải làm sao để cùng nhau thấy được Ngài đã và đang làm gì, con người đã học hỏi rất nhiều từ thiên nhiên, nay muốn vươn lên một tầm cao mới sẽ phải tiếp tục học được những gì nữa để giải quyết những vấn đề lớn, những bế tắc trước mắt và tương lai bằng chính sự nỗ lực sáng tạo của mỗi người và của cả nhân loại.

II- Nghiên cứu về Minh Triết giúp gì cho đất nước

Trong cuốn “Giấc mơ hùng vĩ của người Trung Hoa” tác giả Lưu Minh Phúc (Trung Quốc) viết: “Quốc gia hạng Nhất xuất khẩu văn hoá và giá trị; Quốc gia hạng Hai xuất khẩu công nghệ và quy tắc; Quốc gia hạng Ba xuất khẩu sản phẩm và sức lao động”, dĩ nhiên, Trung Quốc đang nỗ lực trỗi dậy để vươn lên thành một quốc gia hạng nhất. Thực tế Trung quốc đã triển khai lập hơn 300 Học viện Khổng Tử trên 70 quốc gia, khu vực để “xuất khẩu, truyền bá, giới thiệu văn hoá – giá trị Trung Hoa” ra khắp thế giới. Mong rằng những “Học viện” này chỉ giới thiệu, truyền bá những tinh hoa giá trị của văn hoá cổ Trung Quốc chứ đừng nhắm vào tham vọng “bành trướng, bá quyền” xấu xa của chủ nghĩa Đại Hán. Ngay người Mỹ, Anh, Pháp cũng vô cùng tốn kém người và của trong việc đem “những giá trị phổ quát của văn hoá, giá trị” của mình tới khắp nơi trên thế giới.

Rõ ràng, ngày nay, nếu một quốc gia nào đó đủ tự tin để dám “xuất khẩu tư tưởng, triết thuyết” thì đó mới là Quốc gia Siêu hạng. Các nhà Minh Triết Việt Nam, dân tộc Việt Nam hoàn toàn có cơ hội và khả năng để làm được điều này. Chúng ta hoàn toàn có thể “xuất khẩu, truyền bá” tư tưởng Minh Triết – thứ còn ngàn lần mạnh mẽ, quý giá hơn văn hoá và giá trị của bất cứ quốc gia, dân tộc nào (dĩ nhiên nếu chúng ta có đủ … Minh Triết!).

Minh Triết lại là thứ báu vật đặt biệt, đặc biệt ở chỗ “cho đi không vơi, khoe ra không (sợ) mất”, điều này khác hẳn với suy nghĩ của các doanh nhân – lúc nào cũng lo lắng cạnh tranh, mất thị trường, thua lỗ,… Minh Triết là báu vật mà không dễ bị đánh cắp, mà nếu có bị đánh cắp, thì đó chỉ là một sự lan toả - Minh Triết sẽ nảy mầm thiện, sinh sôi, cảm hoá và tiêu trừ cái xấu, cái ác trong chính những kẻ ăn cắp, đây thực sự là sức mạnh vi diệu, toàn trí toàn năng của Minh Triết.

Minh Triết rất quan trọng bởi đó là đạo đức, là con đường dẫn chúng ta đi đến hạnh phúc. Trong cuốn Dưới Chân Thầy - AT THE FEET OF THE MASTER, tác giả ALCYONE (KRISHNAMURTI), Tủ Sách Thông Thiên Học viết: “Có Minh triết bạn mới có thể giúp đời, còn Ý chí để dắt dẫn sự Minh triết, và Từ ái lại gây ra Ý chí. Ấy là những điều kiện mà bạn cần phải có. Ý chí, Minh triết, Từ ái là ba trạng thái của Ðức Thượng Ðế. Nếu bạn muốn hiến mình phụng sự Ngài, thì bạn phải biểu lộ ba trạng thái ấy trong thế gian này”. Và nói theo một ẩn dụ được sử dụng trong các kinh sách Phật giáo, thì chỉ có hơi ấm của Lòng Trắc Ẩn hoà quyện với sự Minh Triết mới có thể làm tan chảy khối quặng ở trong đầu óc của chúng ta để giải phóng ra vàng, tức bản chất sâu xa của chúng ta.

III- Nhà Minh Triết sẽ phải làm gì?

Đã và sẽ còn rất nhiều cuộc tranh luận về Minh Triết, vì vậy tôi thấy cần dẫn lời của Đạo sư Tây tạng Khuyentsé Rinpotché khuyên răn các học trò của mình: “Dấu hiệu của sự Minh Triết và sự kiểm soát được bản thân, và dấu hiệu cho biết người ta đã chín muồi trong trải nghiệm tâm linh của mình là không còn những cảm xúc xung đột nhau. Điều này muốn nói rằng khi người ta đã trở thành một nhà hiền triết và bác học, người ta cũng phải trở thành, theo cùng một tỷ lệ, một người điềm đạm, ôn hoà và có kỷ luật - chứ không phải là người buông thả, kiêu ngạo và lố bịch. Nên thường xuyên kiểm tra rằng các ngươi đã sử dụng thành công các thực hành tâm linh để chế ngự những cảm xúc tiêu cực của mình. Nếu một thực hành nào đó cho kết quả ngược lại, nếu nó làm tăng sự ích kỷ của các ngươi, làm tăng sự lầm lẫn và các suy nghĩ tiêu cực của các ngươi, thì tốt nhất các ngươi nên bỏ nó, nó không phải là dành cho các ngươi”.

Yêu thích Minh Triết, tu rèn để trở thành “Nhà Minh Triết”, tôi nghĩ rằng mỗi chúng ta trước hết hãy nhớ đến lời khuyên trên của K. Rinpotché, nên luôn là một người điềm đạm, ôn hoà và có kỷ luật chứ không phải là một kẻ buông thả, kiêu ngạo và lố bịch.

Như vậy, nếu nhà Minh Triết hiểu được lẽ tận cùng của trời đất, lại biết luận giải một cách thấu suốt những lý lẽ liên quan đến sự vật hay con người thì rõ ràng khi đó chúng ta đã chạm tới một thuyết thống nhất và rõ ràng về mọi việc (Theory Of Everything - TOE). Đề cập đến thời điểm xuất hiện Lý thuyết thống nhất TOE, trong cuốn “Lược sử thời gian”, nhà vật lý thiên tài Stephen Hawking viết: “Khi đó, tất cả chúng ta những nhà khoa học, triết học và cả những người bình thường, có thể tham gia thảo luận câu hỏi về việc tại sao chúng ta và cả cái vũ trụ này lại tồn tại. Nếu chúng ta tìm được câu trả lời cho điều đó, đây sẽ là những chiến thắng tuyệt vời nhất của loài người – vì khi đó chúng ta có thể biết được những suy nghĩ của Chúa”. Đồng thời, hẳn ước nguyện của Immanuel Kant cũng được giải quyết, ông đã từng nói: “Có hai thứ làm tôi ngày càng tràn đầy cảm giác kính nể, ngày càng mong ngóng và thiết tha tìm hiểu chúng đó là: Bầu trời đầy sao trên đầu tôi và quy tắc đạo đức ở trong tôi”.

Ở tầm thế giới, để giải quyết những xung đột tôn giáo, Nhà Minh Triết sẽ phải chứng minh một cách thuyết phục rằng Thượng Đế của người Công giáo với Thánh Allah của người Hồi giáo là Một và cũng chính là Ông Trời của người Á Đông chúng ta, loài người phải biết và tin vào điều đó. Với Phật giáo, Nhà Minh Triết làm rõ hơn thế nào là Thức, là vô thường, là duyên khởi,…, là “sắc sắc, không không”. Nhà Minh Triết nhìn thấu được bản chất của thế giới vì vậy mà thấy được “Vạn giáo nhất lý”, thấy được những tinh hoa lấp lánh ánh Minh Triết trong các tôn giáo nguyên thuỷ cũng như những hạn chế, sai lạc trong lịch sử đau thương của mỗi tôn giáo.

Cố triết gia Linh mục Lương Kim Định đề xuất việc thống nhất tôn giáo, tư tưởng với khẩu hiệu “Hỡi Người hãy đoàn kết lại“, ông đã viết: “Đó là lời kêu gọi đầu tiên được nghe trên mặt đất này. Người ta sẽ không chỉ kêu gọi “hỡi những người vô sản hãy đoàn kết lại” cũng như những lời hô “hỡi các người cùng tôn giáo hãy đoàn kết lại” đã gây nên bao nhiêu cuộc chiến tranh giai cấp, tôn giáo. Vì thế, lần này phải hô: hỡi Người mà không còn gì theo sau, chỉ biết đến Người như một Nhân chủ. Vì là nhân chủ nên nó sẽ không nói “hỡi các công nhân hãy đoàn kết lại”, hoặc “hỡi các người da trắng, hay hỡi các người da vàng, hay hỡi những người nghèo, hỡi những người đang bị đàn áp bóc lột hãy đoàn kết lại”. Mà chỉ nói có một tiếng Người tinh ròng không gì ngoại lai pha vào đó, chỉ là nguời và chỉ trên cương vị đó con người phải đoàn kết lại, để phá bỏ những xiềng xích do thiên hay địa tạo ra để con người trở lại ở nhà của mình để mình tự làm chủ lấy, làm một ông vua trong ba vua là trời, đất, người. Đây là địa vị vừa cao cả vừa quân bình nhất của con người mà cho tới nay chưa có nền triết thuyết nào biết đạt nổi và vì vậy đây sẽ là điều chúng ta thử khởi công trong quyển này dưới tiếng vang vọng của câu: HỠI NGƯỜI HÃY ĐOÀN KẾT LẠI” (Nhân chủ, Lương Kim Định). Minh Triết do đó sẽ đem lại thương hiệu toàn cầu vô giá cho dân tộc Việt Nam.

Trong phạm vi quốc gia, Nhà Minh Triết là người tham mưu uyên bác giúp các nhà lãnh đạo đất nước trong việc quản lý xã hội, phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, an ninh quốc phòng,… không loại trừ bất cứ một lĩnh vực nào. Nhà Minh Triết không chỉ có triết thuyết vững vàng mà còn có công cụ, phương tiện, giải pháp để thực thi, ứng dụng triết thuyết đó vào cuộc sống. Với những vấn đề phức tạp, Nhà Minh Triết nói: “Hãy đi sâu vào bên trong, nắm lấy cái hồn để chế ngự cái phức tạp. Mọi vấn đề đều có cốt lõi, bản chất, mấu chốt của nó!; Phức tạp chỉ là một phạm trù tương đối, một việc khó đối với người này lại có thể dễ dàng với người khác; Nhiều việc khó giai đoạn (thời điểm) này, lại không còn khó vào giai đoạn ( thời điểm) khác; Một việc khó đối với ít người lại trở nên dễ dàng với nhiều người,…”. Minh Triết giúp giải quyết mọi vấn đề vì nhìn được vào bản chất cốt lõi của vấn đề!.

IV- Tương lai của đất nước

Tình thế hiện nay, rõ ràng chúng ta cần, cần lắm một phép màu kỳ diệu để kết nối, huy động được sức sáng tạo của toàn dân tộc. Chúng ta cần một luận thuyết thật Minh Triết trong việc quản trị, điều hành đất nước; thật may là Ngành Công nghệ thông tin đang phát triển mạnh mẽ có thể làm tốt được điều này. Cụ thể, chúng ta phải sớm xây dựng được những kho số liệu cập nhật, chính xác cao trên phạm vi toàn quốc, bắt đầu từ những con số ít nhạy cảm, tiến tới những con số nhạy cảm hơn, làm sao để từng bước mọi người được làm quen với việc thống kê, báo cáo, thu thập thông tin số liệu qua mạng Internet, dĩ nhiên phải bằng loại Phần mềm đặc biệt – sản phẩm sáng tạo của trí tuệ Việt Nam mà chúng tôi sẽ giới thiệu cùng quý vị trong một dịp khác.

Chính phần mềm mà sự sáng tạo của chúng tôi tạo ra làm nền tảng và là cảm hứng cho sự “Chứng ngộ Minh Triết” của tác giả. Tôi tin rằng đó mới thực sự là sức mạnh giúp chúng tôi đủ tự tin để luận bàn về Minh Triết cũng như bất kì vấn đề nào khác với những lập luận nhất quán như trên về “Sự lập trình” và “Chương trình Tạo hoá”.


Mặt trống đồng Hòa Bình

PHẦN B: KẾT HỢP ĐỨC TRỊ, PHÁP TRỊ VÀ KỸ TRỊ ĐỂ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC

Có nhận định rằng, sự tiến hoá của loài người phát triển theo hình xoáy trôn ốc, vòng sau được lặp lại nhưng ở trình độ cao hơn các vòng trước đó. Lịch sử nhân loại cũng đã ghi lại nhiều hình thái chính trị xã hội, đó là xã hội đức trị, pháp trị và đang hình thành xã hội kỹ trị. Mỗi hình thái “trị quốc” này đều có những điểm hay và những hạn chế nhất định, vì vậy, cần phải biết kết hợp cả 3 lại với nhau để chuẩn bị cho một giai đoạn phát triển mới.

Ở bất cứ xã hội nào, thời kỳ nào, vấn đề đạo đức cũng được coi trọng. Chúng ta cũng đã được thấy trong lịch sử có nhiều triều đại, chế độ mà ở đó các giá trị đạo đức con người được đưa lên hàng đầu. Một ông vua hiền, có đức, có lòng yêu dân luôn được ngợi ca, sùng kính và do đó lôi cuốn, thu phục được lòng dân trăm họ chung tay xây dựng, bảo vệ đất nước.

Xã hội đức trị còn dựa trên sự tự giác của mỗi cá thể và đề cao vai trò của dư luận trong xã hội về văn hoá, giáo dục ý thức, đạo đức, giá trị tinh thần. Tuy nhiên, sự phát triển của xã hội thuần đức trị đến một ngưỡng nào đó sẽ không còn phù hợp do những nguyên nhân, mâu thuẫn nội tại bản thân mỗi người, nhất là khi có sự phát triển của xã hội vật chất và do đó đã dẫn đến sự xuất hiện xã hội pháp trị quản lý điều hành đất nước bằng luật pháp.

Luật pháp được sinh ra để điều chỉnh các hành vi của con người, hướng con người đến các sự quy củ, tuân thủ, trừng phạt để răn đe nhưng bản thân luật pháp cũng rất thoáng, nhiều không gian, thời gian để con người có điều kiện tự do sáng tạo, vận dụng. Do vậy, người tốt thì không sao, nhưng kẻ xấu lại triệt để lợi dụng kẽ hở của luật pháp. Mà người xấu, người tham hiện nay không ít (tôi nghĩ sự tham lam, ích kỷ là một loại virus nguy hiểm nhất đang từng giờ, từng phút lan truyền, lây nhiễm giữa người sang người thậm chí giữa quốc gia này với quốc gia khác, khu vực này sang khu vực khác).

Bản thân luật cũng là thực thể “sống”, luôn vận động, luôn tự điều chỉnh để hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với muôn hình vạn trạng của cuộc sống nhưng cái xấu, cái ác lan truyền quá nhanh, sự điều chỉnh của luật lại cần phải có thời gian, nhiều khi không theo kịp với sự phát triển của xã hội.

Ở đây, tôi muốn bàn đến một khía cạnh thứ ba, đó là kỹ trị. Kỹ trị ở đây được hiểu là sử dụng công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật để quản lý, điều hành đất nước, xã hội. Việc kết hợp nhuần nhuyễn, khôn khéo trên cả 3 khía cạnh: đức, pháp, kỹ sẽ là điều kiện tiên quyết để quản lý xã hội thành công. (Trong bài viết của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang về 30 năm đổi mới, ngày 28/7/2015, có nhấn mạnh rằng cần phải “Cải cách hệ thống quản trị quốc gia một cách toàn diện và sâu sắc” và “Một nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, khuyến khích và nuôi dưỡng sáng tạo là nền tảng thành công cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta trong điều kiện mới”).

Rõ ràng, nếu luật pháp quá hà khắc, dân chúng cũng cực khổ, sự tự do, nhân quyền đôi khi cũng bị ảnh hưởng bởi chính những điều chúng ta quy định ra mà nhiều khi không lường hết được những mặt tiêu cực do nó đem lại. Còn nếu chỉ tuyên truyền, hô hào, giáo dục, lấy đức làm trọng cũng chỉ đem lại những kết quả hết sức hạn chế.

Giải pháp có thể dung hoà được các mâu thuẫn ở đây là phải triệt để sử dụng công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật để quản lý, điều hành đất nước, đó là kỹ trị.

Bằng ứng dụng công nghệ nhất là công nghệ cao, công nghệ thông tin, Nhà nước có thể đặt ra những quy định mà người dân có thể dễ dàng chấp nhận hơn do tính khách quan, hợp lý, dễ điều chỉnh của nó. Các nước phát triển đang ngày càng ứng dụng công nghệ cao trong quản lý xã hội: thương mại điện tử, thanh toán qua thẻ, giám sát nơi công cộng bằng camera, khai báo thuế, chi tiêu cá nhân qua mạng… do đó đã đem lại những thành quả to lớn.

Một điều chúng ta dễ dàng nhận thấy là con người ngày càng phụ thuộc vào công nghệ, kỹ thuật. Tôi sẽ rất khó khăn nếu không có máy tính và Internet để viết bài này trong việc lấy tư liệu và viết ra những suy nghĩ của mình, nhất là sửa đi sửa lại ý tứ, câu chữ một cách thoải mái.
Tương lai không xa, hầu hết hoạt động của con người sẽ bị phụ thuộc, thậm chí lệ thuộc hoàn toàn vào máy tính và Internet. Và chúng ta buộc phải làm quen dần với khái niệm con người trở thành “nô lệ” của công nghệ, của Internet. Phần mềm tin học, dịch vụ máy tính, dịch vụ Internet sẽ chi phối hầu hết các hoạt động hàng ngày của con người, các thiết bị, phần mềm tin học sẽ âm thầm, tự động giám sát, theo dõi, điều chỉnh hành vi của con người và là “nhân chứng trong các phiên toà phán xử”.

May mắn thay, phần mềm tin học tuy có một sức mạnh vô cùng to lớn nhưng lại do chính con người tạo ra, do vậy đều có mục đích, ý định, chức năng rõ ràng và con người có thể kiểm soát được. Phần mềm hướng hoạt động của con người ở bất cứ địa vị nào vào sự quy củ, tuân thủ theo những quy định của tổ chức, của luật pháp xã hội.

Ở các nước phát triển, vấn đề ứng dụng khoa học kỹ thuật rất được coi trọng, công nghệ thông tin giúp cho việc điều hành, quản lý đất nước tốt hơn. Hệ thống thông tin minh bạch, rõ ràng, đầy đủ giúp cho việc điều chỉnh chính sách, luật pháp thậm chí hiến pháp được kịp thời, có cơ sở khoa học, đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn xã hội. Xã hội phát triển cao là xã hội điện tử, xã hội số, chính phủ điện tử, kỷ nguyên tri thức… đó là những khái niệm không còn xa lạ với chúng ta.

Để phát triển đất nước, hội nhập thành công, chúng ta phải tự hào là người Việt Nam, phải đề cao giá trị đạo đức, truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam ngàn năm văn hiến, đất nước con rồng cháu tiên, địa linh nhân kiệt. Chúng ta sẽ tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống luật pháp để xây dựng Nhà nước pháp quyền và bên cạnh đó không thể thiếu được những nhà kỹ trị với suy nghĩ táo bạo, sáng tạo, dám áp dụng những công nghệ quản lý tiên tiến nhất, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin trong việc điều hành đất nước, quản lý xã hội vì đó là cách đứng trên vai những người khổng lồ để đưa đất nước vươn lên./.

LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Gợi ý về minh triết tâm linh & cuộc sống

    24/10/2019Tuệ Thiền Lê Bá BônNgày nay có nhiều nhà khoa học xiển dương các giá trị của tôn giáo, vì thế tôi xin trích dẫn một số quan điểm của vài vị Phật giáo...
  • Ăn, nói, gói, mở và sự “minh triết” Việt Nam

    04/10/2016Hạ Vĩnh ThầnCách đây mấy ngày, tôi có nhắc đến chuyện tại sao ông cha ta lại khuyên con cháu mình phải Học ăn, học nói, học gói, học mở. Ý tưởng của bài này xuất phát từ chỗ quá buồn về cách ăn nói của một số vị, không hề cân nhắc nên phải nói trước dân, trước truyền hình như thế nào cho hợp lẽ. Thực ra, tôi đã nghĩ từ rất lâu về điều mà cha ông mình đã minh triết: Tại sao trong cuộc đời chỉ cần học có 4 điều thôi?
  • Minh triết về cuộc đời trong ‘Nhà giả kim’ của Paulo Coelho

    21/05/2016Hanki Ng (tổng hợp)Nhà giả kim là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nhà văn Paulo Coelho, được viết năm 1988, kể về một cậu bé chăn cừu nghèo người Tây Ban Nha, đã phiêu lưu đến châu Phi để tìm kiếm và thực hiện giấc mơ của mình. Trong hành trình chu du đó chàng đã gặp một nhà giả kim...
  • Ngũ hành và khoa học

    09/11/2015PhD. Nguyễn Thế HùngHọc thuyết Ngũ Hành có vài ngàn năm tuổi. Cái tuổi đó được xem là bền vững. Nhưng Học thuyết ấy rất huyền bí, bị khoa học hiện đại xem là nhảm nhí, đôi khi phản khoa học nữa. Thực tế, chúng ta đang quay lưng lại với Ngũ Hành và quay lưng lại với một "khái niệm văn hóa đã và đang bền vững"...
  • Lương Kim Định và minh triết về sự sáng khôn

    07/07/2015Lê Nguyên CẩnVấn đề nghiên cứu mà ông đưa ra được đặt trên bình diện tương đồng, ông không qui tư tưởng phương Tây thành kiểu triết học, và cũng không xếp tư tưởng phương Đông thành kiểu minh triết như nhiều người vẫn thực hiện. Ông đặt hai nền tư tưởng đó dưới một tên chung là triết lí: có triết lí phương Tây và có triết lí phương Đông, thành hai kiểu triết lí về cũng một bản thể, hai kiểu tư duy về cội nguồn thế giới và nhân sinh. Như vậy, sự so sánh đã mang tính chất ngang hàng, đồng dạng, đồng thức để từ đây ông sẽ rút ra các dị biệt. Cách làm của ông thể hiện cái minh triết về sự sáng khôn...
  • Ba bước tới Minh triết

    07/03/2012Thu San Nguyễn Thế HùngHội thảo đã thống nhất cần có định nghĩa “Minh triết là gì?”, hơn nữa “Minh triết Việt là gì?”. Những câu hỏi đó rất khó và rất lớn, chắc sẽ có nhiều ý kiến khác nhau. Cũng như có đến hàng trăm định nghĩa về văn hóa, minh triết chắc cũng sẽ có rất nhiều định nghĩa. Dẫu sao, dưới đây chúng tôi xin có vài ý kiến về định nghĩa Minh triết, dù có thể rất thô thiển...
  • Big Bang – một cách nhìn khác!

    28/01/2011Ngô Sỹ ThuyếtGiả thuyết Big Bang – vụ nổ lớn dùng để giải thích nguồn gốc của vũ trụ có vẻ ngày càng thuyết phục được nhiều người hơn. Sở cứ của thuyết này chủ yếu dựa trên những quan sát thiên văn, thấy rằng vũ trụ hình như đang giãn nở ra với vận tốc ngày càng lớn, các thiên hà dường như đang tản ra, đang chạy xa ra. Tuy nhiên cũng có những thiên hà lại chạy về phía dải Ngân hà của chúng ta, điều đó làm cho các nhà khoa học thêm bối rối và phía những người phản đối Big Bang có lý để phản bác lại thuyết Big Bang - vụ nổ lớn khởi đầu của vũ trụ cách đây chừng 13,7 tỷ năm!
  • Minh triết và hạ tầng tư duy

    17/12/2010Giáp Văn DươngMuốn phát triển, phải xây dựng được một hạ tầng tư duy vững chắc, phong phú và thông thoáng, để từ đó, tạo ra những sản phẩm tư duy có giá trị. Minh triết, với vai trò như một phông nền văn hóa, có mặt trong nhiều thành phần trong cấu trúc của hạ tầng tư duy. Vì thế, việc tìm hiểu mối quan hệ giữa minh triết và hạ tầng tư duy có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện hạ tầng tư duy, tạo điều kiện cho việc giải phóng tư duy, hình thành những tư tưởng mới, sáng tạo và có giá trị cho đất nước.
  • Một số ý kiến về minh triết Việt

    02/01/2010TS. Hồ Bá ThâmLàm rõ đặc dểm và vai trò của minh triết Việt Nam trong lịch sử trong quá trình tiến lên văn minh, hiện đại...
  • Trở về cội nguồn minh triết Việt

    10/10/2009Hà Văn ThùyTrong ý nghĩa nào đó thì minh triết là “Sự khôn ngoan và sáng suốt trầm tích trong chiều sâu nhất của văn hóa và tỏa năng lượng nuôi dưỡng nền văn hóa dân tộc.” Vì vậy, muốn tìm cội nguồn của minh triết, trước hết phải tìm ra cội nguồn văn hóa.
  • Bàn về minh triết

    23/09/2009Nhận lời mời của Hoàng Ngọc Hiến, chủ tịch Hội đồng khoa học Trung tâm nghiên cứu Minh Triết Việt, trong 3 ngày 7, 8, 9 nhà triết học François Jullien, giáo sư Đại học Tổng hợp Paris- Diderot, Viện trưởng Viện Tư tưởng đương đại, đã đến thăm và làm việc với Trung tâm.. Dưới đây là bài nói chuyện của ông về 3 chủ đề: Đấu tranh…và quản lý cái tiêu cực, Cái phổ quát, Minh triết và Thời hiện đại.
  • Ngày xuân bàn về Minh Triết

    25/01/2009Hoàng Ngọc HiếnĐịnh nghĩa minh triết là gì? - việc này rất khó. Một câu nói hóm của một học giả: "Tìm cách định nghĩa minh triết, đó là bằng chứng của sự thiếu minh triết". Đại học tổng hợp Chicago vừa đưa ra Dự án đề tài Định nghĩa Minh triết với kinh phí trợ cấp 2.000.000 USD, học giả bất cứ nước nào đều có thể tham gia. Đây là nội dung tham luận trong buổi sinh hoạt học thuật đầu tiên của Trung tâm nghiên cứu Minh triết Việt được thành lập cuối quý II năm 2008...
  • Minh triết phương Đông & Triết học phương Tây

    07/07/2006Nguyên Ngọc (Dịch & giới thiệu)Viết công trình này Francois Jullien qua lại giữa hai bờ của thượng lưu dòng sông tư tưởng nhân loại: tư tưởng TrungHoa cổ dại (là cơ sở để nghiên cứu minh triếtphương Đông) và triết lý Hy Lạp cổ đại (là căn cứ để xác định tư duy triết học phương Tây)...
  • xem toàn bộ