Khái luận về văn minh học thuật nước Pháp

02:00 CH @ Thứ Bảy - 04 Tháng Bảy, 2009

Văn minh học thuật một nước là tiêu biểu cho tinh thần nước ấy. Tinh thần ấy phát hiện ra nhiều cách, nhưng rút lại có mấy cái đặc tính nó phân biệt nước ấy với các nước khác, khiến cho nước ấy có một cái hình dạng riêng trong vạn quốc, một cái địa vị riêng trong thế giới. Phàm các nước lớn đời xưa đời nay, đã có ảnh hưởng đến cuộc tiến hóa của nhân loại, đều có một cái tinh thần riêng như thế cả. Tinh thần ấy cũng tức như nhân cách của từng người vậy. Nhân cách mỗi người một khác, phát hiện ra ở cách tư tưởng cảm giác, sự cư xử hành vi của mỗi người. Tinh thần một nước cũng vậy mà phản chiếu vào văn minh học thuật của nước ấy. Vậy muốn lý hội được tinh túy một văn minh học thuật nào, tất phải hiểu cái tinh thần riêng của nước đã tạo thành ra văn minh học thuật ấy.

Nay thử hỏi các nhà tây học nước ta, sau khi đọc xong một quyển sách hay bằng chữ Pháp, sách văn chương hay sách nghị luận, sách tiểu thuyết hay sách nhàn đàm, thì cảm giác ra làm sao? Tất ai ai cũng từng nhận rằng cái cảm giác ấy có một hứng vị, một phong thú riêng, không thể giải được, êm đềm mà vui vẻ, nhẹ nhàng mà thiết thực, thơm tho mà mặn mà; cái hương, cái sắc, cái điệu, cái tình nó có một vẻ thiên nhiên mà đườm nhuận, thanh tao mà đậm đà, thực xưa nay ta chưa từng được thưởng thức bao giờ. Cảm giác ấy tuy không nói rõ ra lời được, nhưng nhàm ai đã nếm mùi văn chương Pháp đều thấy phảng phất như thế cả. Bởi đâu mà văn chương nước Pháp có cái sắc cảm hóa sâu xa mà đặc biệt như thế? Bởi cái tinh thần riêng của nước Pháp vậy.

Giải rõ được cái tinh thần ấy, phát biểu được cái đặc tính của nó, không phải là một việc dễ. Tất phải am hiểu tính tình tư tưởng người Pháp, thông thuộc văn chương xã hội nước Pháp, lý hội lịch sử hiện tình dân Pháp, mới có thể nghị luận một cách xác đáng được. Chúng tôi không dám tự phụ có đủ tư cách như thế. Nhân mới được đọc một bài luận rất hay về “Văn minh nước Pháp” (La civilisation francaise) của một danh sĩ bên qúi quốc ông Victor Giraud(1), thấy lời lẽ thực là ứng hợp với cái cảm giác lúc bình thời, tựa hồ như cái mình vẫn ám giải một cách phảng phất xưa nay, nay có người đến chỉ thị, diễn thích, phát minh cho rất tinh tường, khám phá được nhiều điều hay lẽ thực về văn minh học thuật nước pháp. Vậy tưởng không gì bằng tóm tắt đại ý ra sau này, bàn thêm vào, để giúp cho học giả trong nước ta hiểu ra cái tinh thần một nước đã có tiếng là nước đàn anh trên trường văn minh thế giới.

I

Trong bộ tiểu thuyết trứ danh của một văn hào Pháp ngày nay, có kể chuyện một người thiếu niên châu Alsace lòng nhiệt thành yêu mến tổ quốc Pháp, có cái chí cao thượng muốn thờ tổ quốc một cách đặc biệt, khiến cho người Đức cũng phải cảm phục. Bèn quyết chí ở đất Alsace, không xin về nước Pháp, đến tuổi binh dịch lại nhận đăng làm lính với Đức, tự nghĩ rằng: mình là con nhà Pháp-lan, đại biểu một lối văn minh cao thượng, lạc loài ở cùng với giống người thô bỉ cường bạo, cái nghĩa vụ của mình là phải ở chốn nhượng địa này, như người lính canh bờ cõi, để giữ cho văn minh tổ quốc, phát biểu văn minh ấy ra mà cảm hóa bọn thô bỉ kia. Một năm trời ở trong trại quân Đức, thực là được lòng đủ mọi người, quan trên yêu, bạn bè phục, xử với ai cũng rất mực nhã nhặn đến lúc mãn khóa ra về ai nấy đều tiếc; khi từ giã viên đội Phổ già coi mình trước thì được tin con gái lão vừa mới chết, bèn đi mua ngay một vòng hoa sắt đến viếng. Hai vợ chồng lão đội thấy anh ta sắp biệt mình mà còn xử tử tế như thế, rất cảm động trong lòng, mà nói rằng: “Phải chịu rằng người nước Pháp có nhiều nhân đạo hơn người nước khác”…

Một câu của lão đội già nước Đức ấy thực là tóm tắt được tinh thần đặc sắc của văn minh nước Pháp.

Dân Pháp xưa nay vẫn là có nhân đạo phong phú hơn các dân khác. Trong các dân các nước đời xưa đời nay, có lắm dân còn hiển hách hơn dân Pháp nhiều. Nhưng có lẽ chưa thấy dân nào có cái màu vị nhân đạo đằm thắm bằng người Pháp vậy.

Thi nhân Pháp đã có câu thơ rằng :

Plus je suis Francais, plus je me sens humain.

(Tôi làm người Pháp bao nhiêu, là làm người bấy nhiêu)

Người các nước khác thì thường càng gần “quốc túy” bao nhiêu, càng xa “nhân đạo” bấy nhiêu, vì quốc túy là đặc biệt, mà “nhân đạo” là phổ thông. Xem như trước Đức: người Đức càng là người Đức bao nhiêu thì lại càng cách xa với nhân loại phổ thông bấy nhiêu, vì cái nghĩa của người Đức không phải là cái nghĩa của loài người, quyền lợi riêng của người Đức không giống quyền lợi chung của thiên hạ, càng sai biệt bao nhiêu thì lại càng xa cách bấy nhiêu. Đến như người Pháp thì có cái đặc tính quan sát mọi sự mọi vật theo phương diện chung hơn là phương diện riêng, theo lẽ thông thường hơn là lẽ đặc biệt, thành ra người Pháp càng thêm phần quốc túy bao nhiêu lại càng gần với “nhân đạo” bấy nhiêu. Cho nên nói người Pháp có nhiều nhân đạo hơn các người khác là thế.

Nhân đạo là gì? Nhân đạo tức là cái người ta sở dĩ là người ta vậy. Muốn nói giản dị hơn thì nhân đạo là cái cách làm người, cái đạo làm người, theo một 1ý tưởng thông thường cho cả loài người. Trong thế giới này không có dân nào thi hành cái đạo làm người một cách thông thường phổ cập như dân Pháp.

Cả văn minh học thuật nước Pháp đều là tiêm nhiễm một cái màu nhân đạo ấy cả. Muốn chứng rõ điều ấy thì phải xét kỹ về bốn phần tử lớn tạo thành ra văn minh một nước: 1) văn chương; 2) triết học; 3) tôn giáo; 4) lịch sử.

Ông Giraud xét lần lượt bốn bộ phận ấy một cách rất tinh tế, diễn thích phân minh, luận chứng thâm thiết, lời văn bình dị mà hùng hồn, nét bút tả thực mà văn hoa, thuật giả tiếc không thể thu được cái hứng vị của nguyên văn qua lời nôm sốc nổi.

II

Trước hết xét văn chương, tác giả nói:

“Văn chương là hình ảnh cái tinh thần riêng, tính chất riêng của một dân một nước, mà là hình ảnh tự nhiên hơn cả.

“Nói rằng văn chương nước Pháp có nhiều nhân đạo hơn các văn chương đời nay thì thiết tưởng chỉ xét qua văn chương các nước khác là đủ biết vậy. Như văn chương nước Nga thì thiên trọng về thần bí, văn chương nước Anh thì nhiều thi vị, văn chương nước Đức thì nhiều triết lý, văn chương nước Tây Ban Nha thì nhiều tưởng tượng hơn văn chương Pháp. Nhưng so sánh với các văn chương ấy thì văn chương Pháp có nhiều nhân đạo hơn. Các nhà làm văn Pháp chỉ tư nghị đến người ta trước nhất cả, chỉ chủ hình dung tả mạc con người ta trong tình cảnh, tâm tính, ý tứ của mỗi người. Phàm những vấn đề xét đến 1à những vấn đề quan hệ với người ta cả, hoặc thuộc về đạo lý, hoặc thuộc về xã hội. Bao giờ cũng là chú ý về đạo xử thế chung của một đoàn thể. Mà các nhà văn ấy trước thuật cũng là chỉ vị người ta, muốn trực tiếp với người ta, mà cốt nhất là cái người hiển nhiên trông thấy, chứ không phải cái người lỗi lạc đặc biệt, tức là người trung bình mà không phải người siêu việt. Vậy lời văn cốt bình thường cho người ta dễ hiểu, ý tứ cốt giản dị cho người ta thấu được. Nói rút lại thì mục đích cốt yếu của các nhà văn ấy là dạy dỗ khuyên răn người đời, truyền thụ cho người ta cái nhân đạo vậy. Bossuet ngày xưa có phê bình các thi nhân Hi Lạp mấy câu rằng: “Sách vở của các bậc ấy vừa có cái vẻ vui thú mà vừa có cái vẻ nghiêm trang. “Các ngài chỉ tán tụng những công nghiệp có ích lợi cho đời người ta, chỉ vụ việc công ích, ích cho nước nhà, ích cho xã hội, thực là có cái khí vị thuần lương vậy.” Mấy câu ấy dùng để giải nghĩa văn chương nước Pháp tưởng cũng không phải là không đúng.”

Tác giả đã giải thích tính cách chung của văn chương pháp như thế rồi, bèn cử từng thời đại, từng văn phái mà bàn cho rõ thêm ra.

Hai thời đại trứ danh nhất trong văn học sử nước Pháp là thế kỷ thứ 17 và thế kỷ thử 18. Hai thế kỷ có khác nhau mà có giống nhau. Thế kỷ thứ 17 là đời cổ điển, thế kỷ thứ 18 là đời cách mệnh. Nhà văn đời cổ điển chỉ vụ nghiên cứu tâm lý người ta. Cho người ta là một “giống rất phù phiếm, uyển chuyển, phức tạp” (être merveilleuse ment vain,onoyant et divers), nên phải xét nghiệm thật kỹ, cho tỏ tường được hết các khóe ăn ở mà tìm cách răn dạy. Vì các nhà ấy đã thông tỏ tâm lý người ta mà biết rằng người ta “tính bản ác”, nếu không kiềm chế những cái vật dục bất lương, thì xã hội không thể sinh tồn được. Bởi thế các nhà ấy lấy sự duy trì xã hội làm mục đích, vì xã hội có duy trì được, lòng người có kiềm chế được thì người ta cùng xã hội mới được an toàn. Nói rút lại thì văn chương thế kỷ thứ 17 là văn chương cảnh thế, văn chương dạy đời, chủ sự lợi ích cho xã hội nhân quần, tức là một pho tâm lý, một bài luân lý thực hành vậy.

Thế kỷ thứ 18 cũng là vụ cầu cho người đời được sung sướng. Các nhà làm văn đời cách mệnh cũng chỉ nghiên cứu một cái vấn đề về sự hạnh phúc của người ta, nhưng khác người đời trước, là đời trước lấy cái hạnh phúc ở sự kiềm chế, đời nay lấy cái hạnh phúc ở sự tự do, đời trước chủ sự duy trì, đời này trọng đường cải cách. Đời trước chủ cái thuyết “tính bản ác” đời này chủ cái thuyết “tính bản thiện”. Người đời đã tính vốn lành thì mọi sự khổ ở đời là bởi xã hội cả, xã hội đã không ra gì thì phải phá đổ xã hội đi mà hồi phục lấy cái bản tính của người ta lúc sơ sinh. Bởi thế nên các nhà văn thường công kích xã hội, mà tán tụng đời cổ sơ là cái “hoàng kim thời đại” của loài người. Như vậy thì hai cái tư trào của thế kỷ thứ 17 và thế kỷ thứ 18 thật là trái ngược nhau hẳn. Nhưng xét kỹ có lẽ tôn chỉ cũng là giống nhau. Hai thời đại tuy xét người đời ra hai phương diện khác nhau, song đều là mưu cầu cho người ta được hạnh phúc, đều là thiên trọng về nhân đạo cả.

Phạm Quỳnh - hiệu Thượng Chi, bút danh: Hoa Đường, Hồng Nhân - là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn (Việt Nam). Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt - thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp - để viết lý luận, nghiên cứu. Ông chủ trương chiến đấu bất bạo động nhưng không khoan nhượng cho chủ quyền độc lập, tự trị của Việt Nam, cho việc khôi phục quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba kỳ (Bắc, Trung, Nam), chống lại sự bảo hộ của Pháp và kiên trì chủ trương chủ nghĩa quốc gia với thuyết Quân chủ lập hiến.

Các tác phẩm chính:

- Thượng Chi văn tập (5 tập) (Bộ Quốc gia giáo dục, Sài Gòn, 1962)
- Pháp du hành trình nhật ký(NXB Hội Nhà văn - H, 2004)
- Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922 - 1932(NXB Tri thức, H,2007)
- Một tháng ở Nam Kỳ
- Mười ngày ở Huế
- Luận giải về văn học và triết học (Nxb. Văn hoá Thông tin và Trung tâm văn hoá - ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, H, 2003)
- Hoa Đường tùy bút

>> Trang tác giả: Phạm Quỳnh

Đã cai quát hai thế kỷ lớn trong văn học sử, lại bắt đầu từ khi mới có văn chương cho đến cận đại, lục ra những sách nào là lưu truyền hơn cả mà xét xem sở dĩ làm sao được lưu truyền như thế, thì thấy những sách ấy đều là diễn giải về nhân đạo một cách tuyệt phẩm cả. Kể từ sách “Roland anh hùng ca” (La Chanson de Roland) là áng văn chương cổ nhất của nước Pháp, đến tuồng Le Cid của Corneille, đến tập “Tư tưởng lục” (les Pensées) của Pascal, những bi kịch của Molière, sách “Vạn pháp tinh lý” (L'Es prit đes lois) của Montesquieu, cho đến thơ Lamartine, tiểu thuyết George Sand, cho đến những bài phê bình của Sainte Beuve, tuy thể văn phong phú như thế mà rút lại tôn chỉ cũng là một, là mô tả con người ta ra đủ mọi cách, trong đủ mọi cảnh: khi sướng, khi khổ, khi vui, khi buồn; lúc khônngoan, lúc khờ dại; lúc khao khát những sự vô hạn, lúc mưu toan những việc trị bình; lúc khổ vì cái ái tình uốn éo, lúc than vì thế sự ngặt nghèo…

Như vậy thì từ xưa đến nay, phàm những sách hay trong văn chương Pháp, được người đương thời cảm phục, cận thế suy tôn, chính là những sách giàu về nhân đạo cả. Văn chương Pháp có nhiều nhân đạo, vì văn chương Pháp chủ nghiên cứu về người ta, mà trọng nhất là những vấn đề quan hệ đến người ta, đến sự hạnh phúc ở nay người ta vẫn khen văn chương Pháp có ba tính cách hay đời, đường xử thế cùng vận mệnh của người ta. Thi nhân La mã đời xưa có câu thơ rằng: “Tôi là người, phàm cái gì quan hệ đến người ta không phải là không quan hệ đến tôi”. Câu thơ ấy thực là tiêu biểu cho tôn chỉ văn học Pháp.

Xưa nay người ta vẫn khen văn chương Pháp có ba tính cách hay nhất: một là phân minh, hai là giản dị, ba là thành thực. Ba tính cách ấy cũng là bởi cái tôn chỉ nhân đạo mà ra cả. Người Anh, người Đức, người Ý, coi văn chương là một món thưởng thức, dùng văn chương hoặc để diễn cái mộng riêng của mình, hoặc làm món tiêu khiển cho mình. Người Pháp làm văn vị người hơn là vị mình, cầm ngòi bút viết là muốn nói gì cho người đời nghe cả. Vậy cốt nhất là cho người ta hiểu mình. Nên phàm xướng ra tư tưởng gì, không phải cứ mộc mạc thế, gạn lọc lấy tinh hoa rồi mới diễn ra thành lời; lời văn ấy cũng không phải là cẩu thả, thật là chải chuốt trau dồi cho rất vắn tắt, rất giản dị, rất phân minh, nói lên nghe ra ngay, không phải mất công khó nhọc mới hiểu được. Bởi văn Pháp có cái đặc tính như thế nên xưa nay đã được cái danh dự dùng làm văn chính thức trong các công văn điều ước quốc tế, không phải là không xứng đáng vậy.

III

Nay xét đến triết học.

Muốn phát biểu cái đặc tính của triết học nước Pháp, không gì bằng so sánh triết học Pháp với triết học Đức. Nước Đức xưa nay vẫn tự phụ là sở trưởng về triết học. Cứ hình thức mà xét thì triết học Pháp trái hẳn với triết học Đức. Nước Đức lấy triết học làm khoa chuyên môn, chỉ một số ít người chuyên trị, học riêng với nhau, không trực tiếp với người ngoài, và không từng đem tư tưởng của mình đối chiếu với thực tế, so sánh với lẽ phải giữa đời. Bởi thế nên triết học của Đức có vẻ âm u huyền bí, khi cao thì siêu việt quá mà biến ra mây ra khói cả, khi thấp thì thô sơ thiển cận, cứng cỏi sỗ sàng.

Triết học Pháp khác hẳn. Người Pháp lấy triết học là một món phổ thông chung cho cả mọi người có học vấn, có trí thức. Phàm làm người, ai cũng có tư cách biết suy nghĩ, biết tư tưởng, vậy thì ai cũng có thể lĩnh hội phán đoán về chân lý được. Nhà triết học nghiên cứu về chân lý, sở đắc điều gì, phải đem công bố ra cho mọi người biết, không phải là để nghiền ngẫm trong một bọn chuyên môn với nhau. Bởi thế nên phần nhiều nhà triết học Pháp đều là nhà văn hay cả, vì muốn truyền bá tư tưởng của mình cho đắc lực, tất cả phải biết khéo diễn giải ra cho người ta dễ nghe và dễ hiểu. Thực là trái hẳn với nhà triết học Đức, thường dùng một lối văn kỳ khu trắc trở, ngoài bọn nhà nghề ai xem cũng phải chán. Triết học Pháp lại còn có một đặc tính nữa, là thường tiêm nhiễm cả các môn học khác. Nhà triết học thường kiêm văn học, nhà văn học cũng không mấy khi là không có tư cách triết lý. Những văn hào như Bossuet, Voltaire, La mennais, Taine, Renan có thể liệt bằng đẳng với các nhà triết học trứ danh được. Ngoại giả đến những nhà văn thuần túy như Corneille, Molière, Racine, mỗi nhà cũng có một cái “triết học” riêng, nghĩa là một cái quan niệm về vũ trụ, về nhân sinh, triết học ấy tản mạn trong khắp văn chương của mỗi nhà.

Triết học Pháp cũng tiêm nhiễm cả khoa học nữa. Lệ thường ở nước Pháp nhà triết học bao giờ cũng có cái học “cách vật trí tri” tức là kiêm cả khoa học; lắm bậc triết học đại gia lại vừa là tay lý học trứ danh nữa, như Descar tes, Pascal, Auguste Comte, Conrnot, Claude Bernard, Henri Poincaré. Khoa học triết học tiêm nhiễm nhau như thế, lợi cả hai đàng. Nhà triết học trong khi nghiên cứu về nguyên lý, lấy thực tế làm căn cứ, không sợ tư tưởng những sự hoang đường. Nhà khoa học trong khi nghiên cứu về vật chất, lấy nguyên lý làm tôn chỉ, không sợ mê man những sự phiền toái.

Một cái đặc tính nữa của triết học Pháp, là không ưa những lối độc đoán. Ngồi không mà kết cấu những “lâu đài tư tưởng”, không nương tựa vào cái gì chắc thực, không căn cứ vào cái gì vững vàng, ấy là lối các nhà triết học Đức. Nhà triết học Pháp thì chỉ chủ sự thiết thực. Không phải rằng không có tài kết cấu bằng người Đức: Descartes nước Pháp có kém gì Kant nước Đức, Auguste Comte có kém gì Hegel? Nhưng người Pháp không lấy học thuyết của mình lại tự bó buộc mình, làm như cái ngục để giam mình vào đấy, không dám vượt ra ngoài mà xét sự vật ra phương diện khác. Người Pháp ưa tự do, biết rằng chân lý có năm bảy đường tới được, đường nào cũng là chính đáng cả, không bắt ai phải theo một đường nào. Bởi thế nên triết học nước Pháp có cái tính thiết thực hơn triết học các nước khác.

Nói rút lại thì các nhà triết học Pháp kỵ nhất là những tư tưởng hoang đường, mà trọng nhất là những vấn đề thiết yếu cho người ta. Trong các lẽ huyền vi của trời đất, các nhà ấy chú trọng về tâm lý người ta. Cho rằng hễ giải được cái mối huyền vi ấy, là giải được nghĩa đời người. Thế chẳng hơn là lấy tư tưởng làm quân cờ mà đem trọi nhau trên cái bàn cờ vô hình dư? Thế chẳng hơn là lấy tư tưởng làm viên gạch mà chẳng chất lên để xây cái lâu đài trên bãi cát dư?

Tác giả nói: “Dạy cho người ta biết làm người, làm người cho hoàn toàn, châu đáo, nhàn tâm thế nào thì coi như thế, đừng quá trọng mà cũng chớ quá khinh, đừng suy tôn quá mà cũng chớ hạ nhiệt hoài; phải nhận biết cái giới hạn của nó, phải phát triển cái tiềm lực của nó; phải điều hòa sự phải trái của nó; ấy là tôn chỉ của triết học nước Pháp từ xưa đến nay, tôn chỉ ấy các nhà triết học Pháp đã truyền bá ra khắp thế giới. Trong thiên hạ còn có những lý tưởng cao siêu hơn; không đâu có cái lý tưởng, khôn ngoan, nhũn nhặn mà rộng rãi bằng?”

Nói tóm lại thì triết học Pháp cũng như văn học, cũng có tính cách thuộc vê nhân đạo vậy.

IV

Nay lại xét đến tôn giáo.

Đại để có thể nói triết học là tôn giáo của người trí thức, tôn giáo là triết học của người bình thường. Bình dân là phần số nhiều trong một nước; vậy thì tôn giáo là tiêu biểu cho cái lòng tín ngưỡng chung của một dân tộc.

Nước Pháp từ xưa đến nay vẫn lấy đạo “La mã-Thiên chúa” làm quốc giáo. Đạo Thiên chúa thật đã có một phần to trong sự gây dựng ra nước Pháp, trong sự giáo hóa người dân Pháp, mà nước Pháp, người Pháp, từ đời Trung cổ đến giờ, cũng có công to với Giáo hội, xưa đã được tiếng gọi là “con trưởng của Giáo hội”. Đạo Thiên chúa thật là có thanh khí với người Pháp, có nhân duyên với nước Pháp vậy.

Nay đạo Thiên chúa ở nước Pháp có những đặc tính gì? Về phần giáo lý, giáo thống thì cố nhiên là ở nước nào cũng vậy. Nhưng đại để cùng một đạo ở mỗi nước cũng có khác nhau nhiều. Như đạo Thiên chúa ở Ý đại lợi thì thiên trọng về phần mỹ thuật, đạo Thiên chúa ở Tây ban Nha thời thiên trọng về phần thần bí. Đến như đạo Thiên chúa ở nước Pháp thời thiên trọng về phần xã hội. Bossuet đã giải nghĩa tôn giáo là cái dây liên lạc trong xã hội, không những liên lạc người một đời với nhau, mà liên lạc cả người đời này với người đời trước, với người đời sau nữa: không những liên lạc người một nước với nhau, mà liên lạc cả người nước nọ với người nước kia, hết thảy cả người ta trong thế giới. Tôn chỉ của đạo Thiên chúa ở nước Pháp không những là muốn gây thành một đoàn thể tinh thần ở trong đoàn thể quốc gia; lại còn muốn khuếch trương đoàn thể ấy ra khắp thế giới mà dựng nên như trong kinh thánh gọi là cõi “thiên quốc” (la cité de Dieu) ở chốn nhân gian nữa. Cứ xét tổng số những nhà truyền giáo của đạo La mã Thiên chúa, ba phần đến hai phần là người Pháp, thì đủ chứng rằng tôn chỉ ấy không phải là một hư tưởng vậy.

Như thế thì Thiên chúa giáo của nước pháp là vị chung cả loài người hơn là vị riêng một nước mình. Thật là hợp với cái chủ nghĩa “cứu thế” của đạo.

Nói rút lại thì đạo Thiên chúa giáo của nước Pháp có mấy đặc tính khác đạo Thiên chúa các nước, mà tiêu biểu cho tinh thần riêng của nước Pháp. Tác giả giải thích như sau này:

“Thiên chúa giáo của nước Pháp bao giờ cũng chú trọng một điều, là tăng cái giá trị về “phần hồn” tăng cái phẩm cách của người ta. Nên chuộng về phần công nghiệp hơn là phần quan niệm, mà lại chuộng cái công nghiệp có ích cho xã hội hơn là sự tu hành riêng của từng người. Đến việc tu hành nữa cũng không phải là tu hành lấy một mình, bao giờ cũng chủ lấy ích lợi cho nhân quần. Bởi thế nên các nhà tôn giáo nước Pháp không hứng những sự biện nạn huyền bí về thần học, những sự khảo cứu tỉ mỉ về thánh thư, những cách lễ bái phiền phức mà cầu kỳ như nhà tôn giáo các nước khác. Nhà tôn giáo nước Pháp theo lẽ phải thông thường mà vụ những điều cốt yếu, lòng tín ngưỡng bình dị mà không tần phiền; rất am hiểu tâm lý nhân tình; nhiệt thành muốn truyền cái lòng tin của mình cho người khác; nhất là khao khát tấm lòng bác ái từ bi.”

Gồm bấy nhiêu đặc tính, họ chẳng phải là giàu về nhân đạo dư?

V

Sau nữa xét về Lịch sử.

Một nước có văn chương, triết học, tôn giáo hay cũng chưa đủ; phải có lịch sử hiển hách mới biểu dương được những cái hay đó.

Lịch sử nước Pháp thật là xứng đáng với văn chương, triết học, tôn giáo nước Pháp.

Nước Pháp lập quốc sớm, sớm đã tự nhiệm cái thiên chức một nước lớn. Từ đời Trung cổ, cuộc thống nhất trong nước đã tiệm thành, tuy chưa được hoàn toàn, nhưng đã có cơ sở. Gây được cuộc nhất thống ấy, phải nhiều phen chiến việc nghĩa, biết điều tranh. Nước Pháp ngày xưa đã có tiếng là nước thượng võ, đã từng biết đủ các lối chiến tranh: chiến tranh để giữ nước, chiến tranh để lấy đất, chiến tranh vì cái thế quân bình, chiến tranh vì cái sức bành trướng, chiến tranh để đồ bá quyền, chiến tranh để đi truyền bá. Nhưng đại để các lối chiến tranh ấy đều chủ một mục đích; là làm cho vững bền vận nước cả. Nhân làm vững bền vận nước, mà giữ được quân bình Âu châu. Vì chính sách của nước Pháp xưa nay vẫn là cầm giữ ngăn ngừa những nước lớn khác không được xâm phạm đến bờ cõi, đến quyền độc lập các nước nhỏ, để chiếm lấy phần hơn trong lục địa Âu châu. Chính sách ấy vẫn chủ lấy nước nọ hạn chế nước kia, khiến cho thế lực các nước ngang nhau, mỗi nước được tự do mà phát triển văn minh quốc túy, theo đuổi tiền đồ vận mệnh của mình. Bởi thế nên khi nào có một nước hay một vua hùng cường khởi lên, muốn xâm đoạt nước khác để cướp lấy thế lực to hơn, thì Pháp cũng can thiệp vào đánh, cố giữ lấy cái thế quân bình cho Âu châu. Xem như mấy phen Pháp giao chiến với nhà vua Tây ban nha cùng nhà vua Áo đại lợi thì đủ biết. Chắc rằng trong những trận ấy, Pháp cũng có cái lợi riêng của mình; nhưng bao giờ lợi riêng ấy cũng hòa hợp với cái lợi chung của Âu châu, nên hồi nào Pháp đắc thắng là hồi ấy Âu châu hòa bình. Pháp không những giữ cho các nước được tự do độc lập, lại còn đem tiền đem người đi giúp nhiều nước khôi phục lại quyền tự do độc lập đã bị mất. Mỹ được độc lập là nhờ có Pháp cứu viện. Ý được thống nhất là bởi công người Pháp nhiều. Hi Lạp thoát ly được quyền chuyên chế Thổ nhĩ kỳ, chẳng phải là may mà được người Pháp can thiệp giúp ư? Pháp có công với vạn quốc như thế, là bởi Pháp có tài điều hòa quyền lợi riêng của mình với quyền lợi chung cả Âu châu hoặc cả thế giới. Cũng vì thế mà Pháp được hơn các nước khác có cái tư cách biết quên mình vị người, hay cổ võ những việc nghĩa cử, nhiệt thành với công lý công nghĩa.

Hoặc có người chê Pháp đi viễn chinh để lấy thuộc địa là trái với chủ nghĩa nhân đạo. Nói thế là không hiểu cái tình thế một nước lớn trong thế giới đời nay. Pháp đi lấy thuộc địa cũng là bởi cái địa vị trên trường quốc tế, bắt buộc như thế. Các cường quốc đều có thuộc địa mà mình không, là đành chịu phần thua phần thiệt, mà không giữ được thế quân bình trong liệt cường. Vả sự đi lấy thuộc địa cũng có nhiều cách. Lấy đất của người ta mà nô lệ bác tước người ta, là phi nhân đạo. Lấy đất của người ta mà ra công dìu dắt cho người ta bước mau trên đường tiến hóa, vị tất đã là việc phi nghĩa. Pháp lấy thuộc địa, dù là Algérie, Tunisie, Magascar, Maroc, Tây Phi Châu hay đất Ấn Độ, China này nữa, đều tuyên bố lấy khai hóa làm chủ nghĩa, hiệp tác làm phương châm. Thế thì cũng không phải là xa với nhân đạo vậy.

Suốt lịch sử nước Pháp chứng rõ rằng nước ấy từ xa đến nay vẫn biết ham chuộng việc nghĩa, biết điều hòa cái nghĩa riêng của mình với nghĩa chung của văn minh thiên hạ. Hồi giặc Hung nô xâm nhập Âu châu, bấy giờ nước Pháp chửa thành nước Pháp mà đã ngăn ngừa được quân giặc, khiến cho văn minh Âu châu khỏi phải tiêu diệt vì quân mọi rợ. Lại hai thế kỷ sau, giặc Hồi tiến sang nam bộ Âu châu, Pháp cũng phá tan được ở đồng bằng Pottiers’ cứa được đạo Thiên chúa khỏi cái nạn dị đoan.

Lịch sử nước Pháp vẫn có một cái tính cách khoát đạt, thường ba cập ra ngoài, chứ không khu khu trong giới hạn một nước. Không những khi đối ngoại mới có tính cách ấy; ngay trong phạm vi quốc gia cũng vậy. Tựa hồ như nước Pháp có cái sức phản chiếu ra ngoài rất mạnh, nhất cử nhất động, dẫu chỉ quan hệ đến một mình, cũng có ảnh hưởng ra ngoài, người ngoài lấy đấy làm gương, theo đó bắt chước. Cứ xét một cuộc Đại cách mệnh năm 1789 thì đủ biết ảnh hưởng ấy sâu xa là dường nào. Cách mệnh ấy chẳng qua là khuynh đảo chính thể quân chủ cũ mà đặt chính thể dân chủ mới, tưởng cũng là một cuộc nội biến thường, không có quan hệ gì đến thế giới. Cớ sao mà mới nổi lên đã kích động cả toàn Âu? Chẳng phải là bởi cuộc cách mệnh ấy tuy vị nghĩa riêng một nước mà hàm cả nghĩa chung nhân loại dư? Sau khi phá được ngục Bastille, ngày 2 tháng 8 năm 1789, hội “Lập hiến” (La Constiluante) bá cáo tờ “nhân quyền tuyên ngôn”, xướng lên rằng phàm làm người ai cũng được tự do bình đẳng cả. Lời tuyên ngôn ấy nói chung cả nhân loại, không phải riêng một dân Pháp. Bởi cái tính cách đại đồng phổ cập ấy mà cuộc Cách mệnh năm 1789 có ảnh hưởng sâu xa như vậy.

Vậy thì lịch sử nước Pháp cũng như văn chương, triết học, tôn giáo, cũng hàm có ý nghĩa về nhân đạo vậy.

Nói tóm tắt một câu thì nhân đạo là đặc tính hiển nhiên, có thể gọi được là “linh tính” của cả văn minh học thuật nước Pháp. Suy diễn ra cũng một đặc tính ấy, qui nạp lại cũng một đặc tính ấy.

Tác giả đã suy diễn cái lý tưởng nhân đạo ấy trong suốt một bài đại luận, lời lẽ nghiêm trang như cái lâu đài cổ Hi Lạp, tình tứ cảm động như bộ tiểu thuyết mới thời nay, bèn qui nạp lại mấy câu kết luận như sau này:

“Trách nhiệm của nước Pháp, thiên chức của nước Pháp là phải xét mọi sự mọi vật theo về phương diện nhân đạo. Bởi đó mà văn chương, triết học, tôn giáo, lịch sử, đều có cái sức cảm động rất mạnh. Nước Pháp đã đem cái lòng ham nhân đạo đến cực điểm đến bậc nguy hiểm cho mình. Bình sinh đã từng lắm phen phải lừa phải hại vì cái lòng ham nhân đạo ấy. Nhưng mà cái dại ấy là cái dại vẻ vang, vì dại là dại không biết ghen ghét ai, không biết ngờ vực ai, dại là mau quên những bước từng trải gian nan, những sự đố kỵ thâm trầm, những kẻ tham lam quá độ. Nước Pháp không thể tin được rằng muôn việc trong thiên hạ chỉ dùng võ lực, cái võ lực kiêu căng tàn ngược, mà giải quyết được. Nước Pháp không bao giờ chịu rằng cái mục đích cứu cánh của sự học là chỉ để nghĩ thêm cho người ta những cách trong tương tàn tương hại lẫn nhau. Một văn sĩ cổ nước Pháp, Ra belais, đã từng nói câu tuyệt ngôn này: “Học vấn không có lương tâm chỉ là tai hại tâm tính” (Science sans conscience n'est que rui de l'âme). Nước Pháp không thể tưởng tượng được rằng một dân tộc hay một văn minh nào, lại có quyền đạp đổ nhưng dân tộc cùng văn minh khác. Lý tưởng của nước Pháp không phải là cái lý tưởng muốn biến cả sự tư tưởng sinh hoạt của người ta thành cái máy vô hồn cứng cỏi, thực là lý tưởng muốn để cho tinh thần riêng của mỗi dân tộc được tự do mà phát triển cho điều hòa. Một thế giới chỉ thấy thịnh hành cái võ lực của bọn quân nhân, cái phiền toái của bọn học giả, cái kiêu căng của phái quan lại, chỉ thấy thiên trọng những vẻ cục cằn thô lỗ, nhưng thói hung hãn bạo tàn, một thế giới như thế, nước Pháp cho là nơi địa ngục cực kỳ khả ố. Kẻ khác gọi là “văn hóa” (la culture), nước Pháp cho thế là “dã man”. Dã man càng có học càng thậm tệ. Đối với cái văn hóa giả đó thì văn minh của Pháp thật là trái ngược hẳn. Văn minh pháp là tự do, là diễm lệ, là điển nhã, là điều hòa, là mầu nhiệm là tiêm tất, là khoan dung đại độ, là bác ái nhân từ; nói tắt một câu, là gồm trong hai chữ “nhân đạo” vậy. Trong thiên hạ ví không có văn minh Pháp, thì sẽ thiếu mất cái mầu mẽ phong nhã cao thượng vậy.

(1917)

(1) Ông là một nhà “phê bình” có tiếng ở nước Pháp. Nguyên dạy văn chương Pháp ở trường Đại học Fribourg, nước Thụy Sĩ. Ông làm bài luận về văn minh nước Pháp này, đã từng được hội Hàn lâm ban “phần thưởng hùng biện” (prix d’éloquence) năm 1916.

Nguồn:
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Phạm Quỳnh và quá trình tiếp nhận văn hóa phương Tây ở Việt Nam đầu thế kỷ XX

    25/03/2018Vương Trí NhànKhi một người có hoạt động thực sự trên lĩnh vực văn hoá, trở thành có đóng góp về văn hoá, người đó nhất thiết phải có tình cảm tốt đẹp và sâu sắc với dân tộc, với đất nước. Ấy là niềm tin đến với chúng tôi khi lần giở lại Nam Phong. Nó cũng là nhân tố giúp chúng tôi yên tâm khi tìm hiểu những đóng góp của Phạm Quỳnh...
  • Phương Đông và phương Tây

    07/11/2015Phạm Quỳnh (sinh (17/12/1892 - mất 6/9/1945)Chúng ta sống trong một thời kỳ khủng hoảng của lịch sử thế giới. Đấy không phải là một lời sáo rỗng tầm thường, một công thức mơ hồ và có phần cường điệu. Đấy là một nhận xét cần thiết nếu ta nghĩ đến những hậu quả kinh khủng của bi kịch do cuộc va chạm giữa Phương Đông và Phương Tây gây ra trên thế giới...
  • Triết học nước Pháp

    08/11/2014Henri Bergson - Phạm Quỳnh dịchCái tính hiếu triết học đó thực là tiêu biểu cho tính tình cao thượng của người Pháp, chỉ ưa những nghĩa lý công minh chính đại ở đời. Như vậy thì hồn nước Pháp với hồn triết học tất có thanh khí với nhau, không phải không.
  • Phạm Quỳnh (1892 - 1945)

    29/06/2009Một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn. Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt - thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp - để viết lý luận, nghiên cứu...
  • Một nhà khoa học nước Pháp: Marcelin Berthelot

    09/06/2009Phạm QuỳnhKhoa học ngày một tấn tới, từ một trăm năm trở lại đây đã biến cải hẳn mặt địa cầu. Ta đứng xa mà trông những cảnh tượng kỳ kỳ quái quái, hằng ngày xuất hiện ra trước mắt ta, vừa kinh hãi, vừa cảm phục, không ngờ một khối óc mềm của con người mà làm nên những sự kinh thiên động địa như thế. Tuy ngày nay không tin thần thánh như xưa, không cho các công cuộc kỳ diệu ấy là bởi tay những bậc “siêu nhân” làm ra, nhưng lại đặt ra một vị thần mới, vô hình, vô ảnh, gọi là thần Khoa Học.
  • Thơ Baudelaire

    03/06/2009Phạm QuỳnhThơ có hai phần: một là âm điệu, hai là tình tứ. Âm điệu là phần hình thức, tình tứ là phần tinh thần. Âm điệu tức là cách dùng chữ xếp vần, cho có âm hưởng tiết tấu để đọc cho êm tai vui miệng. Tiếng mỗi nước một khác thì âm điệu cũng không giống nhau, nên thi luật của nước nào là riêng cho nước ấy, không thể chuyển dịch sang tiếng nước khác được.
  • Simone de Beauvoir

    17/03/2009Lê HoaNgày 14 tháng 4 năm 1986, một người đàn bà từ giã cõi đời. Trong tang lễ của bà, người đàn ông từng có một thời yêu bà đã nói một câu có sức lan truyền sâu rộng tức thì: “Phụ nữ, các bà nợ bà ấy mọi thứ.” Hai mươi năm sau, ngày 13 tháng 7 năm 2006, chiếc cầu thứ 37 bắc qua sông Seine ở thủ đô Paris của nước Pháp, dành riêng cho người đi bộ, được khánh thành và mang tên người đàn bà đó: Simone de Beauvoir. Nước Pháp đã vinh danh người đàn bà Pháp vĩ đại nhất thế kỷ 20, và phụ nữ toàn thế giới lấy làm tự hào: Bà là người mẹ của phong trào phụ nữ hiện đại, tác giả quyển sách được coi là Kinh Thánh của phụ nữ: “Đệ nhị giới.”
  • Đối thoại văn hóa hay đụng độ văn minh

    23/07/2006PGS. TS. Hồ Sĩ QuýSự đối thoại giữa các nền văn hóa là phương thức tối ưu cho sự lựa chọn của con người, là quy luật khách quan của sự phát triển bền vững. Sự đối thoại giữa các nền văn hóa là giá trị định hướng an toàn đối với tiến bộ xã hội...
  • Ảnh hưởng của “Tân thư” trong tư tưởng Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh

    17/07/2006PGS. PTS. Lê Sĩ ThắngĐối với các nhà nho Việt Nam yêu nước hồi đầu thế kỷ - những người đã từng bị Nho giáo bưng tai bịt mắt, đã thấy được ở một chừng mực nào đó sự lạc hậu của nhà trường Nho giáo và đang khao khát giải thích nhiều vấn đề có liên quan đến sự nghiệp giải phóng dân tộc, thì “Tân thư" đã có sức hút mãnh liệt...
  • Sự va chạm của các nền văn minh

    04/07/2005Lam KiềuVài năm gần đây, bạo lực liên tiếp leo thang ở nhiều nơi trên thế giới, các cuộc khủng bố đẫm máu đe dọa cuộc sống của bao người dân vô tội. Hơn thế nữa, các tài sản văn hoá vật thể, minh chứng cho sức mạnh vĩ đại của con người cũng bị phá huỷ. “Trong các cuộc chiến tranh giữa các nền văn hoá, thì văn hoá bao giờ cũng là kẻ chiến bại”. Đó là một trong rất nhiều nhận xét sâu sắc và đầy tâm huyết mà Samuel Shungtington đưa ra trong cuốn sách của mình.
  • xem toàn bộ