Tản mạn đầu năm
Khi đoàn quân chiến thắng tiến về Thủ đô ngày 10/10/1954, nhà thơ Tố Hữu đã khắc họa tình trạng nghèo khó của đất nước: “Thuở ta tiến quân về Hà Nội, áo quần nâu chân đất súng thô, những phố chợ gầy đen hấp hối”. Vài tháng sau đó, đầu năm 1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Trường đại học Nhân dân, đã nghĩ đến “nước Việt Nam sánh vai các cường quốc năm châu” khi đòi hỏi thanh thiếu niên phải học tập tốt và trong Di chúc để lại cho muôn đời sau, Bác tin tưởng nước ta sẽ “xây dựng mười lần to đẹp hơn”.
Cách mạng tháng Tám năm 1945, dân tộc ta đã rửa được nỗi nhục dưới ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân “giữa quê hương mà như kiếp đi đày”.
Thắng lợi oanh liệt của Chiến dịch Hồ Chí Minh ngày 30/4/1975 đã kết thúc cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, chấm dứt tình trạng bị chia cắt và giành thống nhất đất nước.
Và chính công cuộc Đổi mới do Đảng ta khởi xướng từ năm 1986 đã từng bước làm cho diện mạo đất nước thay da đổi thịt. Sau hơn 20 năm phát triển theo kinh tế thị trường, Việt Nam từ một quốc gia có thu nhập tính theo đầu người thấp nhất thế giới đã đặt chân vào nhóm nước có thu nhập trung bình (thấp), xích gần hơn trình độ các nước phát triển trong khu vực, hội nhập sâu rộng hơn với thế giới. Vào năm cuối cùng của thập niên đầu của thiên niên kỷ mới, nước ta đã có thể hướng đến mục tiêu cao hơn: năm 2020 trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Cuộc sống hiện tại của cả dân tộc, mỗi dòng họ, từng gia đình và mỗi người vẫn còn nhiều nỗi lo âu, nhưng người Việt Nam, trong những năm tháng chiến tranh tàn khốc vẫn đầy lạc quan “tiếng hát át tiếng bom”, thì ngày nay càng lạc quan hơn với tương lai của đất nước. Lạc quan luôn là vũ khí tinh thần để vượt qua mọi trở ngại, đã được bạn bè gần xa coi là một đức tính đáng tự hào trong một thế giới đầy trắc ẩn, như ông Tổng lãnh sự New Zealand tại TP.HCM, Perter Healy trước khi dời nước ta trả lời câu hỏi: Ông muốn mang thứ gì từ Việt Nam về nước (?). “Giá mà tôi có thể đóng chai sự lạc quan của người Việt Nam đem đến bán ở những nơi con người cảm thấy tuyệt vọng hoặc mấy hết ý chí. Đó sẽ là sản phẩm tuyệt vời nhất trên thị trường”.
Theo số liệu điều tra dân số gần đây, hơn 86 triệu người Việt Nam có đến một nửa sinh ra sau chiến tranh, nhiều người trong độ tuổi thanh thiếu niên. Họ có quyền hưởng thụ cuộc sống ngày càng tốt đẹp.
Nhưng điều mà thế hệ trẻ cần luôn hướng đến là lịch sử dân tộc, như Bác Hồ đã dạy “dân ta phải thuộc sử ta”. Một dân tộcđã có bề dày hàng ngàn năm lịch sử với những sắc thái riêng về văn hóa, truyền thống, cần được thế hệ hôm nay và mai sau vun đắp để khi hội nhập với thế giới, tiếp thu tinh hoa của nhân loại làm giàu hơn và phong phú hơn bản sắc dân tộc.
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”, “ lá lành đùm lá rách”, “chị ngã em nâng” là những phẩm chất cao đẹp của người Việt Nam được thể hiện trong những phong trào đầy tình nhân ái như xây nhà cho người nghèo, quyên góp tiền cho các vùng bị thiên tai, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, cần được nhân rộng để trong khi mọi người được quyền làm giàu cho mình và gia đình một cách chính đáng, thì góp phần làm giàu cho Tổ quốc và bảo đảm công bằng xã hội...
Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” là nguyện vọng của các thế hệ người Việt Nam, ngày nay dần trở thành hiện thực, đang đòi hỏi mỗi người trong chúng ta lao động cần cù, sáng tạo trên cơ sở một môi trường thật sự dân chủ, khuyến khích và tạo mọi điều kiện để phát huy trí tuệ vốn là một thế mạnh của người Việt Nam, để mọi ý tưởng mới được thực hiện, đẩy nhanh hơn công cuộc chấn hưng đất nước.
Các dân tộc trên thế giới đang ganh đua trong một thế giới toàn cầu hóa, có cả thách thức lớn và cơ hội lớn cho những nước đang phát triển. Thể chế của đất nước, khoa học và công nghệ, đào tạo và giáo dục là những nhân tố quyết định một nước đang phát triển trong khoảng thời gian vài thập kỷ trở thành nước công nghiệp phát triển. Chính sách trọng dụng nhân tài có tầm quan trọng đặc biệt.
Năm 1429 khi lên ngôi vua, Lê Thái Tổ đã chỉ dụ: “Trẫm nghĩ, muốn thịnh trị phải được người hiền tài… Nay trẫm gánh vác trách nhiệm nặng nề, sớm khuya kính cẩn lo sợ nhưng đứng bờ vực thẳm, chỉ sợ chưa kiếm được người hiền tài giúp đỡ trị nước. Vậy ra lệnh cho các đại thần văn võ, công hầu đại phu từ tam phẩm trở lên, mỗi viên tiến cử lấy một người, ở trong triều hay ngoài thôn dã, đã làm quan hoặc chưa làm quan. Nếu người nào có tài năng, tri thức văn võ, có thể cai trị dân chúng thì trẫm sẽ tùy tài bổ dụng…”. Chính sách đó đã được ông Phan Huy Chú ca ngợi: “Vua Thái Tổ chưa xong việc binh mã mà vội tìm người tài như thế, mới là anh chúa sáng nghiệp”.
Ngày nay, người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài không thiếu những người có tài năng và bản lĩnh, đại đa số hiền tài của đất nước đều nuôi hoài bão cống hiến trí tuệ của mình để chấn hưng Tổ quốc. Thiết tưởng, một chính sách trọng dụng hiền tài như thời vua Lê Thái Tổ vẫn cần lắm thay!.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpTương lai trong lòng quá khứ
06/02/2009Nguyễn QuânKế thừa tinh thần yêu nước truyền thống của dân tộc ta trong bối cảnh toàn cầu hóa
02/02/2010Mai Thị QuýBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáBàn về Nguyên khí, Dương khí & Âm khí
08/12/2009Nguyễn Tất Thịnh