Tròn 30 năm, kịch tác gia, nhà thơ xuất chúng Lưu Quang Vũ cùng nữ sĩ tài hoa Xuân Quỳnh đã ra đi. Vô cùng thương tiếc hai tinh hoa đặc sắc trong làng thơ văn Việt Nam đương đại, đặc biệt yêu thích thơ Lưu Quang Vũ vì tính tư tưởng cùng tính trữ tình sâu sắc trong thơ ông, tôi đưa lên trang bài thơ ĐẤT NƯỚC ĐÀN BẦU của ông để cùng thưởng thức.
(Nhà thơ Nguyễn Thị Hồng)
.
ĐẤT NƯỚC ĐÀN BẦU (Lưu Quang Vũ)
Đi dọc một triền sông Những chiếc trống đồng vùi trong cát Những mảnh bình vỡ nát Những mũi tên lăn lóc Khắp đồi núi hoang vu Những rìu đá cổ sơ những hang động khổng lồ Những đống lửa còn tro tàn sót lại.
Đi tìm lại thời gian đã mất Thuở biển cả điên cuồng gầm thét Những con chim lạc mỏ dài Bay qua vầng trăng lớn Cánh sừng sững tắm hoàng hôn đỏ rực Cất tiếng kêu hoang dại dưới đêm nồng.
Đi tìm lại những bông hoa xanh biếc Những rễ cây quằn quại Những ngà voi nhọn hoắt Những tiếng hú dài ào ạt mưa rơi Tôi đi tìm dòng máu của tôi Hơi thở đầu sôi sục của tôi Trong cuồn cuộn những ngực trần đen bóng Những bộ lạc mình vẽ đầy rồng rắn Quần hôn trên bờ bãi sông Hồng Những mái tóc dài bay gió biển Đông Những mái lá có bùi nhùi giữ lửa Những người đàn bà tết cỏ cây che vú Đã ngọt ngào dòng sữa Điệu ru con đầu tiên Bức tranh đầu tiên khắc mặt người lên đá Điệu múa đầu tiên theo nhịp thuyền.
Buổi sáng tôi ra vườn Hoa móng rồng thơm ngát Lá xương xông mọc quanh vại nước Dây trầu không quấn quít hàng cau Đất rụng vàng hoa ngâu Nước mưa rơi tí tách Tôi lắng nghe như chú dế mèn con Đi ra đồng cỏ ban đêm Quạ đen đậu ngôi mộ cổ Những con bướm đêm đập cánh thầm thì Tôi trở về ngồi trong lòng bà Bà kể chuyện thời con gái Trốn nhà theo anh trai phường vải Gánh hát chèo tỉnh Đông Điệu hát con gà rừng Cô Xuý Vân giả dại Cô Xuý Vân không chịu sống yên Điệu hát chập chờn Con gà rừng mê sảng Cô Xuý Vân nổi loạn Đốt cháy tâm hồn tôi.
Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ
Anh con trai phường vải không về Sông Cầu xa thăm thẳm Vạt áo tứ thân lau nước mắt Bà hát tôi nghe những điệu buồn Đưa tôi về làng quan họ Nhịp cầu ván ghép rung rình Chẻ tre đan nón ba tầm Đội lên quán dốc Ngồi gốc cây đa Thấy cô bán rượu Ống quần cỏ may Đồng đất thì dài Đêm hội làng ngắn quá Từ giã bạn ra về Mưa bay mù mịt cả Lòng nửa thương bên nọ Nửa sầu bên kia Nỗi cay cực ngàn xưa Tôi mang suốt đời không nguôi được Dân tộc tôi bốn ngàn năm áo rách Những người chết đặc trong lòng đất Những mặt vàng sốt rét Những bộ xương đói khát vật vờ đi Vó ngựa lao dồn dập Giặc phương Bắc kéo về Vung gươm dài đẫm máu Bao đền đài bị đốt thành than Bao cuốn sách bị quăng vào lửa Bao đầu người bêu trên cọc gỗ Con trai chinh chiến liên miên Con gái mong chồng, hoá đá Mỵ Châu chết không sao hiểu được Vì đâu Trọng Thuỷ hoá quân thù?
Gió mùa thu Tiếng đàn bầu nức nở Chiều chiều ra ngõ Sông dài cá lội biệt tăm Thương cha nhớ mẹ Mênh mông chớp bể mưa nguồn Cái nỗi buồn dân tộc Cái nỗi buồn bị đoạ đày lăng nhục Của người quét đường, xẩm chợ, đò ngang Của mom sông đánh dặm, đỉnh rừng đốt than Đập đá sườn non, đi phu đi ở Mà mỗi tháng giêng, hoa gạo nở Vẫn sênh tiền gõ nhịp Giải yếm sau lưng cũng tím hoa cà Cháu lên Kẻ Chợ cùng bà Nón quai thao, áo màu bay rực rỡ Những lò rèn phập phù bễ lửa Phường chạm bạc, phường đúc đồng Phố hàng Hài thêu những chiếc hài cong. Những cô gái dệt the và phất quạt Những hàng Điếu hàng Buồm hàng Bát Rùa trao gươm, chim lạ đến Tây Hồ Lụa làng Trúc, rượu Kẻ Mơ Phố Tràng Thi ngựa hí Phố Tràng Thi những thầy khoá trẻ Giấy hồng điều phấp phới bút hoa Bao gương mặt ngày xưa Bây giờ ai nhớ nữa? Trên tranh khắc trên ngàn pho tượng cổ Còn nóng rực tay người trong gỗ đá Lung linh chim múa hoa cười.
Vọng quanh thành tiếng trống thúc xa xôi Muôn cờ xí trập trùng đuốc lửa Những đề đốc, những tướng quân áo đỏ Những Đông bộ đầu, Chương Dương độ, Hàm tử quan Thanh gươm cũ với câu thơ giữ nước "Ngựa đá bao phen phải lấm bùn" Cháu đi ra cửa bể Vân Đồn Mùa thu biển lạnh Những chú lính thú đời Trần đã chết Bãi lầy sú vẹt mênh mông Đảo chênh vênh dưới mù mịt mưa phùn Hang đá ào ào gió hú Cửa Vạn Tài, đảo Tràn Bàn sóng dữ Thương nỗi mình lận đận vợ chồng sam.
Đêm bão gầm cồn cát chạy lang thang Bà kể chuyện những bờ biển lạ Cửa Thuận, cửa Hàn, những tháp Chàm sụp đổ Những đoàn người xoã tóc hú tìm nhau.
Phương Nam xa mây trắng xoá một màu Xác khiên mộc của bao đời chiến trận Những người đi mở nước Lưỡi cuốc mòn cha gửi lại cho con Bốn bể Cà Mâu, mũi đất Hà Tiên Với Kinh Bắc, Tràng An chung ruột thịt Tiếng đàn bầu réo rắt Lý ngựa ô, Lý ngựa ô Như gió cuộn trên bình nguyên cháy khô Ngựa ô chạy ướt đầm thân mảnh dẻ Thương con ngựa ô xa mẹ Bây giờ ăn cỏ nơi đâu?
Màu áo đen của đêm, màu của đất áo nâu Luôn đánh vật với tai ương nước mắt Đất chỉ sinh những bàn tay làm lụng Không có những nhà ảo mộng đăm chiêu Đất tả tơi trong định mệnh đói nghèo Trong độc ác dối lừa, trong sỉ nhục Người nô lệ da vàng bất khuất Vươn giữa trời thơm ngát tấm lòng son Tóc phơ phơ bạc trắng sợi đau buồn Sao bà hát những lời da diết Cháu nghe mãi vẫn lạ lùng tiếng Việt Chữ "thương" liền với chữ "yêu" Chữ "thương" đi cùng chữ "nhớ" Dân tộc trải xót xa nhiều nỗi khổ Phải thương nhau mới sống được trên đời Những hoàng hôn chạng vạng cánh dơi Tôi ra sông nằm xoài trong bãi sú Phù sa ướt lấm lem gò má Tôi về ngồi dưới lá úa cành xoan Tuổi thơ buồn như một mảnh vườn hoang Nơi ấp ủ con dế mèn cô độc Trái sung non thì chát Quả dọc già thì chua Em đến cùng tôi như chùm vải đầu mùa Tóc hoang dại loà xoà trên ngực nắng Ngực em sáng như mặt trời sắp lặn Tôi đầm đìa sương lạnh của bờ đê Tôi thấm đầy nước mắt của trời khuya Trăng đã hiện, đêm ca dao vằng vặc Những cô Tấm thử hài trong tiếng nhạc Những nàng Kiều hồi hộp bấm dây tơ Đêm sử thi náo động tiếng quân hò Sôi trong máu những bầy voi nguyên thuỷ Sáng trong mắt những rừng gươm chớp loé Những nỗi buồn tê dại ngón tay rung Chim Lạc bay, cánh rợp cả sườn non Rùa đẻ trứng nồng nàn trên cát bể Rừng gầm thét, thác nguồn sao trắng thế Đất mênh mông tràn ngập ánh mặt trời Gió thổi lồng những đốm lửa không nguôi Tôi nhận hết, tôi là người tiếp nối Là dĩ vãng nhưng chẳng là bóng tối Nước mắt tôi ướt đẫm những dây đàn Quả bầu khô là tâm sự của vườn Mặt đàn gỗ là của rừng xanh thẳm Điệu bát ngát là của đồng của đất Lời vụng về là tha thiết lòng tôi.
Đêm hội vui, tiếng trống giục liên hồi Bà sống dậy, bà đừng buồn nữa nhé Bà lại trẻ như ngày xưa hát ví Người náu mình trong quả thị bước ra Người hứng dừa từ giấy điệp bước ra Người đã khuất cũng về đông đủ cả Những tượng đá bỗng chập chờn nhẩy múa Những cụ già say rượu hát nghêu ngao Ngực em tròn anh chẳng dám nhìn lâu Lời em nói có măng rừng muối bể Hồn dân tộc dậy ta làm thi sĩ Quá khứ nhiều mà ta chẳng già nua Mọi tai ương khủng khiếp đã qua Gà đã gáy xôn xao chào buổi sớm Mai gắn lại những vết thương xé thịt Dân tộc mình mở tới một trang vui Hoa gạo hồng lại nở, bà ơi Cháu đã đi từ lòng bà ấm áp Để sống hết những vui buồn dân tộc Những hoa bìm hoa súng nở trên ao Những ban mai xanh biếc tiếng đàn bầu Bà hiền hậu têm trầu bên chõng nước Em đi gặt trên cánh đồng cổ tích Lúa bàng hoàng chín rực những triền sông...
Trắng mây bay, ngợp gió những khu rừng Cháu đã đi những tháng năm lửa cháy Với trùng điệp bạn bè cùng tuổi Áo quân trang xanh cây lá vườn bà Đất chiến hào vẫn đồng đất quê ta Máu đồng đội đã thấm vào đất ấy Những đêm thức nghẹn ngào nghe đất gọi Vây quanh mình bao gương mặt thân quen Mặt người xưa hoà lẫn mặt anh em Câu hát cũ lẫn vào câu hát mới Dòng sông hét, biển gầm lên dữ dội Những chân trời vụt mở bao la Những chân trời chưa hề biết hôm qua Tiếng đàn bầu, tiếng đàn bầu mong nhớ Trong gió lộng, dưới mặt trời xứ sở Vẫn cồn cào những cơn khát khôn nguôi Đất phù sa vô tận dấu chân người Những đoàn quân lại ra đi từ đất Bà đứng đó miệng trầu cay thơm ngát Vầng yêu thương soi sáng suốt cuộc đời Khắp triền sông vang tiếng trẻ con cười Đất nước đàn bầu Đất nước ban mai...