Tiếng An-nam

07:50 SA @ Thứ Năm - 20 Tháng Tám, 2009

Lời thưa của người thực hiện (Nguyenvanvinh.net): chúng tôi dựa trên bản chụp lại và cố gắng sao chép đúng với nguyên bản. Cứ theo luật lệ chính tả và văn phạm ngày nay thì bài văn có nhiều chỗ sai, nhất là ở các cặp chữ s/x, ch/tr, gi/r/d, và những chỗ chấm, phẩy và viết hoa. Không rõ những chỗ sai này do cụ Vĩnh lầm, hay do hồi đó chưa có luật lệ rõ rệt, hoặc giả cụ Vĩnh chủ trương viết theo cách phát âm của mình; vấn đề này mong được các học giả nghiên cứu làm sáng tỏ. Riêng chúng tôi khi thực hiện chỉ mong thấy sao chép vậy, vì chúng tôi quan niệm những bài viết này, ra đời cách nay trên dưới 100 năm, vào thời kỳ phôi thai của Việt ngữ, nên mang ít nhiều tính chất lịch sử. Ở trên chúng tôi nói cố gắng giữ đúng nguyên bản vì chúng tôi chỉ có bản chụp; bản chính được hình thành cách nay non một thế kỷ, vào lúc kỹ nghệ in ấn và giấy mực còn thô sơ, rồi tài liệu được lưu trữ gần một thế kỷ nên ngay bản chính cũng đã mờ nhạt; nay chúng tôi có bản chụp của bản mờ nhạt nên không tránh khỏi có những chỗ không thể nào phân biệt được chữ gì, dù đã dùng đến kính phóng đại. Trong trường hợp đó, chúng tôi chỉ còn cách dựa trên ngữ cảnh mà đoán.

Nguyễn Văn Phổ và Nguyễn Kỳ sưu tầm, Nguyễn Nga Mỹ đánh máy nguyên văn theo bản chụp lại.


Ở Đông Dương ta ngày nay nhà nước đã mở tràng trung–học, thì chính– phủ Đông Dương đã có ý xin với bộ Học, cho tiếng An–nam vào chương–trình ngoại ngữ.

Quan thượng thư bộ Học, ngài cũng sẵn lòng y nhời bàn ấy lắm, ngài bèn truyền ngay cho Học chính ở đây đệ về bộ mấy quyển sách tiếng An–nam nào, gọi là danh–thư, để ngài phụng chỉ dụ nhận cho những sách ấy là sách học. Té ra không có sách gì mà đệ cả, cho nên quan Học bộ không cho vào chương–trình một thứ tiếng chẳng có kinh–điển nào.

Việc đó tất thành ra một cách biện–lý khó cãi của những người ghét tiếng Annam, mà lại cũng là một việc nên tủi cho những nhà bút–nghiên đất Nam Việt.

Té ra nước ta xưa nay vẫn có tiếng là đất văn–vật, mà hoá ra một nước không có văn–chương ; tú, cử, thám, trạng cuả mình, té ra xưa nay rung đùi đánh–chén, chỉ có thú việc ngâm–nga chữ nghĩa cuả người; còn những tiếng trình–thưa với mẹ, những tiếng ân–ái với vợ chồng, anh em, bạn–bè nói với nhau, không ai biết thú đến, tuy rằng hàng ngày phải dùng đến, từ dân–gian cho đến chỗ triều–đình vua quan, thường phải dùng đến, mà khi phải viết ra, thì lại đi mượn văn–tự người mà dịch; khi muốn ngâm nga vịnh đọc lại phải nhờ cái điệu chi, hồ, dã, hĩ, dả, tai, thì mới ngâm nga vịnh đọc; thành ra tính tình không có thực tả; nhời ca điệu đàn không ngụ được thật tình.

Nay người ta hỏi nước văn–vật, nào chữ nghĩa nước văn vật có những sách gì làm kỉ–cương, làm kinh–điển, những cái hay, những cái tài–tình, xuất–xứ ở nơi mô, thì nọ có sách gì mà giơ ra được.

Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) nổi bật với quan điểm duy tân cấp tiến. Thuộc nhóm người tân học, làm việc với người Pháp, và được sang Pháp công tác, sớm nhận thấy sự văn minh tiến bộ tây phương, ông hiểu rằng muốn canh tân đất nước, việc giáo dục quần chúng là điều kiện quan trọng trước nhất. Để giáo dục quần chúng, sự cần thiết là phải nhờ vào chữ quốc ngữ, báo chí, và ấn phẩm. Những yếu tố này ở nước ta lúc bấy giờ chưa có...

>>Trang tác giả:Nguyễn Văn Vĩnh

Nguyên là tài–nôm thì nước Nam ta cũng có lắm tay, nhưng chẳng qua xưa nay vẫn cho là cái ngoại–tài, nhà nào có tài nhỏ ấy thì chỉ lấy bút lông mèo mà chép vào mấy tờ giấy bản, cho trong nhà hoặc chỗ bạn thân xem với nhau mà thôi, không in thành sách, mà dẫu có in ra cũng chẳng ai học, vì nhà nước không bắt học.

Được một vài bộ sách nôm, nhời văn có ý–nhị, điệu hát có tính tình, thì toàn là những lối thơ, phú, có vần, có điệu, có tiếng nói đúc lại, khác hẳn với lời nói thường, không dùng làm sách học nói tiếng mình được, người thường xem không vỡ chỉ thích ở cái điệu bổng trầm nặng nhẹ, cứ đọc thuộc lòng đi như con vẹt, không biết nghĩa là chi chi.

Thế mà tiếng nói nước ta, là một tiếng nói hay, đủ tiếng mà diễn ra được hết ý–tình, đủ dùng cho một dân có cương–thường đạo–lý, có cách đàm–luận, có cách lịch–sự, có cách giao–thiệp với nhau cũng tao nhã, chớ có phải là một thứ tiếng hèn mọn như tiếng nói cuả mấy giống dã man ở châu Phi châu Áo đâu.

Cho nên người Âu–châu đến đây, cũng muốn học lấy tiếng nói ấy, để giao thiệp với ta, cho mỗi ngày thêm thân–ái, thêm biết ý tình nhau ra, tiện cách dạy bảo ta. Mà muốn học được tiếng nói một nước, cần nhất là có sách vở hay, làm bằng tiếng nói nước ấy, để làm điển cho chỗ xuất–xứ.

Thế mà sách ta không có, thành ra học tiếng chỉ có cách liệu người nghe ta nói truyện với nhau làm mực, lấy phương–ngôn, tục-ngữ làm điển. Mà cách nói chuyện, phương–ngôn, tục–ngữ cuả nước ta, chẳng qua cũng cứ truyền khẩu đi, không có gì làm bằng cứ, mỗi nơi nói một khác, đọc một khác; mỗi người nói một cách, đọc một cách. Thành ra tiếng An–nam ta, tuy là một tiếng rứt hay, rứt nhiều tiếng, mà văn–tự hoá ra chưa có, ngày nay mới bắt đầu làm ra cho thành văn–tự.

Việc làm văn–tự ấy chẳng những cần cho người ngoại–quốc học tiếng ta; lại cần cả cho ta học lấy mẹo–mực tiếng ta, để mai sau này có một tiếng nói nhất định rõ ràng mà nói với nhau, mà học–hành các thuật hay, các ý-tưởng mới, nhờ phong–trào mới mà sinh ra.

Nay muốn gây cho văn–tự nước Nam có kinh có điển, thì bao nhiêu những bậc tài–hoa, những người có học–thức trong nước, phải chuyên vào nghề văn quốc–ngữ. Các bậc danh nho thì nên bỏ quách cái tài ngâm hộ cho người đi, chỉ học cho biết để mà nhân cái hay người làm lấy cái hay cuả mình mà thôi. Các bậc có Pháp học, thì tuy rằng cái ngoại tài ấy phải chuyên làm cách chen cạnh, làm mối kiếm ăn, nhưng hễ muốn nhân việc lập thân mà lại có ích cả cho đồng–bào mình, thì phàm luyện được một chút tài nào cuả người, cũng nên dùng quốc–văn mà phát–đạt nó ra cho cả người đồng bang được hưởng.

Nào báo quốc–ngữ, nào sách học quốc– ngữ, nào thơ quốc- ngữ, nào văn-chương quốc-ngữ, án–ký, hành–trình, tiểu–thuyết, nghị–luận, tờ bồi việc quan, đơn từ kiện tụng, nên làm toàn bằng chữ quốc–ngữ hết cả. Từ đến những cách cao–hứng, vịnh–đề, tình hay, cảnh đẹp, từ câu–đối dán nhà, tứ bình treo vách, câu phúng bà con, nhời mừng bạn–hữu, đều nên dùng quốc–văn hết thảy. Mà cốt nhất là, phải tập lấy lối văn xuôi, diễn dịch như in nhời nói, cho rõ ràng, cho nhất định, phải khiến cho nhời văn–chương theo nhời mẹ ru con, vú ấp trẻ, nhời anh nói với em, vợ nói với chồng; chứ đừng có để cho văn–chương thành một cách nói lối, mà tiếng nói vẫn cho là nôm tục. Văn–chương phải như ảnh tiếng nói, và tiếng nói phải nhờ văn–chương hay mà rõ thêm, mà đủ thêm ra.

Lại còn một điều khẩn–yếu, là muốn cho văn quốc–ngữ thành văn–chương hay, khỏi mang tiếng nôm na mách qué, cách đặt câu, cách viết, phép chấm câu, phải dần dần đặt cho thành có lệ có phép; mà lệ phép thì phải theo ý nhiều người đã thuận, chớ đừng ai tự đắc lối của mình là phải, đem ý riêng ra sửa đổi thói quen.

Phải nhớ câu: phàm ngôn–ngữ nước nào cũng vậy, dầu tài thánh trạng một người cũng chẳng làm ra được.

LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Bồ Đào Nha và công trình sáng chế chữ Quốc ngữ

    20/04/2016Roland JacquesLàm sao quên được công trình vĩ đại mà các vị tiên phong của công cuộc truyền giáo tại Việt Namđã thực hiện? Những điều mà các vị truyền giáo dòng Tên đến từ Bồ Đào Nha, do Bồ Đào Nha gửi đi, đã thực hiện trong phạm vị ngữ học kỳ cùng là những công trình có tính cách quyết định cho tương lai văn hóa Việt Nam...
  • Chữ Nho với văn quốc ngữ

    29/07/2009Phạm QuỳnhVăn quốc ngữ do Hán văn mà ra, không thể dời khuôn phép của Hán văn mà thành lập được; nhưng hiện nay chữ Hán không mấy người biết nữa, làm thế nào cho quốc văn thành được? Có thể bỏ hết chữ Hán mà chỉ dùng tiếng Nôm được không?
  • Dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh - chiếc cầu nối văn hóa Đông Tây

    28/07/2009Hoàng TiếnNền văn hóa phương Tây, ta chỉ mới làm quen độ hơn trăm năm nay. Những người có công bắc chiếc cầu nối để ta hiểu phần nào nền văn hóa phương Tây, cũng như để người phương Tây phần nào hiểu nền văn hóa Việt Nam, là lớp trí thức hồi đầu thế kỷ, mà ông Nguyễn Văn Vĩnh là người đáng được ghi công đầu.
  • Sự ra đời của chữ quốc ngữ - Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh

    24/07/2009Nguyễn Đình ĐăngTôi đã vẽ bức tranh “Sự ra đời của chữ quốc ngữ- Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh” với lòng ngưỡng mộ sâu sắc đối với hai vĩ nhân nói trên của dân tộc Việt Nam - Alexandre de Rhodes và Nguyễn Văn Vĩnh.
  • Tiếng Việt - Những công lao bị quên lãng

    08/07/2009Cao Xuân HạoTrong lịch sử của ngành Việt ngữ học, ông là một trong những tác giả ít bị những định kiến "dĩ Âu vi trung" chi phối hơn cả, nhất là khi đem so với sách học tiếng Việt ngày nay. Kể cho đến bây giờ, ít có cuốn sách nào cung cấp cho ta nhiều thông tin về ngữ pháp tiếng Việt như mấy cuốn sách không lấy gì làm dày của ông. Trong mấy cuốn này không thiếu những phát hiện quan trọng mà ngày nay chẳng mấy ai nhắc đến, trong khi lẽ ra nó phải được những người đi sau tiếp thu và khai triển, đào sâu hơn nữa.
  • Ngôn ngữ mới của nước Nam

    03/07/2009Phạm QuỳnhKhông thể chối cãi là hiện giờ đang có một ngôn ngữ mới của nước Nam đa dạng hơn, uyển chuyển hơn, đủ khả năng hơn cho sự diễn tả các tư tưởng mới và các quan niệm trừu tượng so với ngôn ngữ đó cách đây mười lăm, hai mươi năm.
  • Văn quốc ngữ

    05/06/2009Phạm QuỳnhVấn đề quan trọng nhất trong nước ta ngày nay là vấn đề văn quốc ngữ. Vấn đề ấy có giải quyết được thì sự học mới có thể tấn tới, dân trí mới có thể mở mang, cuộc tiến hóa sau này mới có thể mở mang được.
  • Tiếng Tây-Tiếng ta

    19/05/2009Lê Trường- Tri NiênĐất nước ta đang ở thời kỳ mở rộng giao lưu với các nước đã khiến tiếng Việt tiếp nhận ồ ạt nhiều khái niệm mới bao hàm những nội dung ngữ nghĩa mới của những từ ngữ đang dùng hoặc từ ngữ mới . Điều nhận ra trước tiên là sự xuất hiện của những từ nước ngoài, những tên riêng nước ngoài không gì cản nổi trên các trang báo, trên các kênh truyền hình, các văn bản viết và trên các bảng hiệu quảng cáo...
  • Cuộc tiến hóa của tiếng nước Nam (*)

    09/04/2009Phạm Quỳnh (1)Thưa quý ngài, khi hai người không hoà thuận với nhau, các ngài bảo đó là họ không nói cùng một thứ tiếng. Chúng tôi thì nói: ngôn-ngữ-bất-đồng (không có cùng một ngôn ngữ). Đối với các cá nhân đã vậy; đối với các dân tộc càng như vậy. Để đi sâu vào tâm thức của một dân tộc, để có thể thiện cảm với nó, không gì bằng sự hiểu biết ngôn ngữ.
  • xem toàn bộ