Mô thức mới cho thị trường tài chính
Mô Thức Mới Cho Thị Trường Tài Chính - Cuộc Khủng Hoảng Tín Dụng Năm 2008 Và Ý Nghĩa Của Nó
Tác giả: George Soros.
Dịch giả: Phạm Tuấn Anh. Hoàng Hà.
Nhà xuất bản: Tri Thức
Số trang: 284
Kích thước: 13x20 cm
George Soros đã làm được một việc vô giá: Giúp chúng ta hiểu rõ về cuộc đại khủng hoảng tín dụng và ảnh hưởng của nó lên kinh tế toàn cầu.
Mục lục
Lời giới thiệu
Bối cảnh
Phần I: Tổng quan
Chương 1: Ý tưởng cốt lõi
Chương 2: Tự truyện của một triết gia bất thành
Chương 3: Thuyết phản hồi
Chương 4: Tính phản hồi trong thị trường tài chính
Phần II: Khủng hoảng hiện tại và sau đó
Chương 5: Giả thuyết siêu bong bóng
Chương 6: Tự truyện của một nhà đầu cơ thành công
Chương 7: Dự phóng của tôi cho 2008
Chương 8: Một vài khuyến nghị về chính sách
Kết luận
Về tác giả. (Xem thêm:George Soros: Nhà quản lý tài chính của thế giới)
Hiểu khủng hoảng tài chính qua một mô thức
(Quốc Khánh, Sài Gòn tiếp thị)
Vẻn vẹn trong 280 trang sách, George Soros, một trong những nhà đầu tư thành công của thế kỷ 20, đưa ra lý giải về căn nguyên của khủng hoảng tín dụng. Đọc Mô thức mới cho thị trường tài chính của Soros, người đọc có thể hiểu cách Soros phân tích thị trường và hưởng lợi từ nhận định của ông. Ước tính, chỉ riêng năm 1992, quỹ đầu tư của Soros bỏ túi khoảng 1,1 tỉ bảng Anh, theo Fiancial Times, từ nhận định có biến động về vị thế đồng bảng trên thị trường tiền tệ. Cuốn sách cũng mang lại cho người đọc sự hoài nghi khoa học: thị trường tự do có khả năng tự điều chỉnh như ban đầu Adam Smith đã đưa ra và sau này được Milton Friedman cũng như Lucas phát triển thành học thuyết “tân cổ điển” hay không?
Nếu như Hiểu kinh tế qua một bài học của Henry Hazlitt đưa ra rất nhiều ví dụ khác nhau nhưng đều phục vụ chung một luận điểm cơ bản: vấn đề của kinh tế học là sự lựa chọn dựa trên đánh đổi giữa chi phí và cơ hội, thì cuốn sách của triết gia bất thành, như tự nhận của Soros, cũng truyền tải một thông điệp: thuyết phản hồi và định đề tính có thể sai triệt để.
Thị trường không hoàn hảo
Thuyết cạnh tranh hoàn hảo chỉ có khi có thông tin thị trường hoàn hảo. Từ giả định này, Soros cho rằng trạng thái lý tưởng đó chỉ có trong sách giáo khoa. Soros cũng cho rằng, con người không thể có thông tin hoàn hảo khi bản thân họ vừa là người thu nhận thông tin vừa là người ra quyết định. Chính vị thế không thể tách rời giữa quá trình thu nhận và ra quyết định cũng như tác động tương hỗ của hai quá trình này khiến cho con người có các nhận định sai.
Xa hơn nữa, Soros phát triển triết thuyết của Karl Popper để chứng minh các định luật khoa học luôn phải đặt trong sự hoài nghi “có thể sai”. Popper đưa ra ba quy trình cơ bản là dự đoán, lý giải, kiểm nghiệm. Popper cho rằng, chỉ cần kiểm nghiệm được sự không phù hợp giữa điều kiện đầu và cuối thì định luật đó không thể kết luận là khoa học. Từ sự hoài nghi này mà ngay từ cuối thập niên 1940, lúc còn là sinh viên trường kinh tế London, Soros đã nghi ngờ lý thuyết thị trường hoàn hảo.
George Soros (sinh năm 1930 tại Hungary) Mệnh danh là nhà đầu cơ tài chính, doanh nhân đầy cá tính nổi tiếng nhất thế giới. George Soros đã nổi tiếng trên khắp thế giới sau sự kiện tháng 9/1992, ông đặt 10 tỷ USD vào một vụ đầu cơ tiền tệ, bán khống đồng Bảng Anh. Kết quả là hóa ra ông đã đúng, và chỉ trong vòng một ngày thương vụ đó đã đem lại cho ông lợi nhuận 1 tỷ USD - lợi nhuận của Soros trong vụ này cuối cùng đã lên tới con số 2 tỷ USD. Sau sự kiện này, ông trở nên nổi danh với biệt hiệu "người phá sập ngân hàng Anh quốc." Ngoài vụ "buôn" đồng Bảng Anh nổi tiếng, ông còn được cho là người đã châm ngòi cho cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, khi ông đã rất mạnh tay đầu cơ giá xuống đối với đồng Baht Thái Lan.Hiện nay, ông là chủ tịch của Soros Fund Management. Khi Soros được trao tặng bằng danh dự tại trường đại học Oxford và được hỏi ông muốn được miêu tả về mình như thế nào, trong câu trả lời của ông có đoạn: "Tôi muốn được coi là một nhà đầu cơ tài chính, có lương tâm và có triết lý sống." Câu nói này mô tả rất chính xác cuộc đời của George Soros, đặc biệt nếu thêm vào đó cụm từ "rất thành công." 1. Giả kim thuật tài chính (1988) - The Alchemy of Finance |
Khoảng tiền tỉ không chỉ giúp Soros trở nên giàu có mà còn giúp ông đủ tự tin để phát triển thuyết của mình trước các lời chỉ trích của giới học giả. Điều này cũng dễ hiểu khi Soros đụng tới ba tượng đài kinh tế của trường phái Chicago là Milton Friedman, Eugene Fama và Robert Lucas. R.Lucas nhận Nobel Kinh tế năm 1995, M. Friedman nhận giải này năm 1976. Nổi danh bởi các công trình về lý thuyết tiền tệ và cổ xuý cho thị trường tự do, những công trình ban đầu của M. Friedman đóng góp nhiều vào sự phát triển của học thuyết thị trường hoàn hảo. Sau này, học trò ông là E.Fama ứng dụng vào thị trường chứng khoán để hình thành trường phái đầu tư chỉ số. Hiểu đơn giản, nếu bạn mua đầy đủ các chứng khoán đại diện cho thị trường, thí dụ như VN–Index, sau một quãng thời gian đủ dài, bạn sẽ thu lợi mà không phải quan tâm nhiều tới diễn biến cụ thể thị trường. Cốt lõi của đầu tư chỉ số là thừa nhận rất khó thắng được thị trường khi các thành viên đều có quyết định hợp lý, nên cách tốt là mua chỉ số để theo thị trường. Lucas đưa ra thuyết kỳ vọng duy lý, với trọng tâm là phê phán chính sách kinh tế chủ động sẽ không hiệu quả. Do vậy, trong một chu kỳ kinh tế nếu có xảy ra tình trạng đi lệch vị trí cân bằng, thị trường sẽ tự động điều chỉnh vào thời gian kế tiếp. Dĩ nhiên Soros không tin vào điều đó và ông đã đúng trong gần 40 năm qua.
Ba nhân tố gây khủng hoảng tín dụng hiện nay
Hành động của các thành viên trong thị trường không phải dựa trên lợi ích mà dựa trên nhận thức về lợi ích. Sự tách biệt này dẫn tới thị trường có tính bất định |
Cũng từ mô thức trên, G. Soros cho rằng cuộc khủng hoảng tài chính là sự đặt chồng của hai bong bóng: địa ốc ở Mỹ và siêu bong bóng dài hạn.
Biện giải của Soros về địa ốc không phải là mới. Bong bóng này xuất phát từ chính sách lãi suất thấp từ sau bong bóng công nghệ 1990. Xu hướng chủ đạo tạo nên bong bóng này là sự nới lỏng tiêu chuẩn cho vay. Xu hướng này được tiếp sức bằng ngộ nhận là giá trị của tài sản cầm cố không bị ảnh hưởng bởi khả năng vay dễ dàng. Khi lãi suất tăng, bong bóng này không vỡ ngay do nhu cầu đầu cơ và sự cởi mở điều kiện cho vay, cho tới khi sụp đổ.
Hình thành từ thập niên 1970, siêu bong bóng dài hạn được thúc đẩy và nuôi dưỡng bởi ba nhân tố: toàn cầu hoá, tự do hoá và nới lỏng kiểm soát thị trường tài chính.
Toàn cầu hoá trong con mắt của Soros, khiến cho nước Mỹ trở thành con nợ của cả thế giới. “Trong khi Mỹ hạnh phúc khi tiêu thụ nhiều hơn sản xuất, thì Trung Quốc và các nước xuất khẩu châu Á khác vui vẻ khi sản xuất nhiều hơn tiêu thụ” – Soros viết. Kết cục là Mỹ nợ đầm đìa, phải bù đắp bằng trái phiếu chính phủ. “Đây là sự ngược đời khi vốn chảy từ các nước kém phát triển vào Mỹ” – Soros phân tích. Toàn cầu hoá còn giúp Mỹ phân phát nợ dưới dạng chứng khoán hoá sang các nước. Hệ quả là không chỉ có Mỹ chịu rủi ro từ bong bóng địa ốc mà các nước châu Âu, nhất là Đức cũng gánh chịu rủi ro.
Việc xuất hiện các sản phẩm tài chính mới dựa trên công cụ tài chính tổng hợp, tính toán rủi ro và giao dịch chứng khoán, theo phân tích của Soros, được bảo chứng dựa trên lý thuyết các thị trường có xu hướng trở lại vị trí cân bằng. Điều tệ hại, như bình luận của Soros, “những phương pháp và công cụ mới được sáng chế quá tinh vi đến mức giới điều tiết cũng mất luôn khả năng tính toán những rủi ro đi kèm”. Xác định rủi ro dựa trên giả định hệ thống là ổn định, các nhà quản lý buông lơi cho hệ thống tín dụng phình to.
Dự báo tương lai, Soros chỉ phác hoạ hình ảnh một cường quốc như Mỹ phải đối mặt với cuộc suy thoái và tình trạng từ bỏ đồng USD. Trật tự thế giới mới, trong hình dung của Soros sẽ hình thành. Nhưng trước hết, con người cần phải có sự hiểu biết tốt hơn về hoàn cảnh hiện tại của chính mình. Nền tảng xây dựng sự hiểu biết không gì bằng hoài nghi khoa học, điều mà Soros và nhiều học giả lớn trong lịch sử nhân loại đều mong mỏi.
Khủng hoảng tài chính 2008 dưới góc nhìn George Soros
(Khánh Duy, Tuần Việt Nam)
Trong cuốn sách mới được xuất bản tại Việt Nam Mô thức mới cho thị trường tài chính, nhà đầu cơ tài chính George Soros đã lý giải cuộc khủng hoảng hiện nay dưới một góc nhìn khái quát nhưng cũng rất cụ thể từ trải nghiệm của người trong cuộc.
Một bài báo phê phán George Soros đăng trên tờ Jewish World Review đã mở đầu bằng một câu chuyện hài hước thế này:
Trong một bộ phim, diễn viên Peter Sellers đã thủ vai một nhân vật mà chúng ta không biết dùng từ nào để diễn tả hợp hơn từ tâm thần có vấn đề. Thế mà, người ta lại cứ coi ông ta như một thiên tài. Trong cuộc họp báo, phóng viên hỏi ông nghĩ gì về đất nước Trung Quốc. Thiên tài trầm ngâm, cúi đầu rồi chậm rãi trả lời: "Đất nước Trung Quốc toàn là… người Trung Quốc". Đám đông phóng viên ở dưới gật đầu lia lịa, tán thưởng trí tuệ của thiên tài và thì thầm với nhau: "Toàn người Trung Quốc, đúng quá rồi".
Cũng đúng như vậy với người có tiền, khi anh có nhiều tiền, chẳng ai nghĩ anh điên cả. Hoạ chỉ có người nghèo mới điên. Khi một người giàu đến dạ hội với một bộ cánh kỳ quặc thì những người khác sẽ nghĩ rằng chính cách ăn mặc của họ mới không hợp mốt. Câu chuyện này làm ta nghĩ đến George Soros…
Sự thật là Soros có quá nhiều tiền, năm 2004, ông đứng thứ 24 trong danh sách những người giàu nhất thế giới, tài sản của ông hiện tại khoảng 9 tỉ USD. Và nhà đầu cơ huyền thoại này lại là một kẻ lắm tiền hay "nói", ông viết đến cả chục cuốn sách từ kinh tế tới chính trị. Tất nhiên, chỉ tên tuổi của nhân vật được coi là "Mozart của thị trường chứng khoán" này đã khiến người ta quan tâm đến những điều ông nói rồi, đặc biệt khi ông nói về tài chính.
Và những điều "thiên tài" nói không hề "ngu ngốc" như câu chuyện mỉa mai trên, điều đó thể hiện rõ trong tác phẩm mới nhất của ông Mô thức mới cho thị trường tài chính.
"Triết học" của một "triết gia bất thành"
Soros như thường lệ không bắt đầu một cuốn sách bằng cách đi ngay vào vấn đề chính mà ông bắt đầu bằng triết học. Đó là điểm đặc biệt của ông. Soros xây dựng cho người đọc một bộ khung tư duy triết học sau đó mới dùng khuôn mẫu tư duy đó áp vào chủ đề chính, cụ thể trong cuốn sách này là cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Khung tư duy của Soros vẫn là một lý thuyết mà ông gọi là lý thuyết phản thân (Bản tiếng Việt dịch là phản hồi nhưng tôi cho rằng từ phản thân hợp lý hơn khi nói đến một mối liên hệ mà một vật có với chính nó).
Lý thuyết này cho rằng các hiện tượng xã hội có một cấu trúc khác so với hiện tượng tự nhiên. Trong hiện tượng tự nhiên, người quan sát và hiện tượng độc lập với nhau, diễn trình của hiện tượng không phụ thuộc vào người quan sát. Ví dụ, người quan sát có đứng ở đâu thì trái đất vẫn quay, họ không thể thay đổi thực tế đó.
Nhưng trong hiện tượng xã hội thì ngược lại, người quan sát trực tiếp tác động làm thay đổi hiện tượng chứ không chỉ đơn thuần là nhận thức chúng. Soros gọi đó là chức năng thao túng.
Ví dụ, Karl Marx cho rằng lịch sử là một quá trình tiếp nối các hình thái kinh tế xã hội, chủ nghĩa tư bản rồi đến chủ nghĩa cộng sản. Khi đó, ông không chỉ dừng lại ở việc nhận thức quá trình thay đổi mà thực chất đã tác động vào quá trình đó.
Những người đi sau đã ứng dụng học thuyết của ông để xây dựng chủ nghĩa cộng sản ngay cả ở những quốc gia mà tư bản chủ nghĩa mới manh nha hoặc chưa định hình. Như vậy, con người không chỉ nhận thức hiện tượng xã hội mà còn thao túng để thay đổi chúng theo nhận thức của mình.
Nhưng nhận thức con người theo Soros luôn không hoàn hảo và có thể sai, thậm chí triệt để sai. Những nhận thức sai hay ngộ nhận này tác động làm thay đổi hiện tượng xã hội theo những con đường bất định, không đúng với những khung lý thuyết sẵn có mà chúng ta vẫn coi như chân lý. Ví dụ trong lĩnh vực kinh tế học là lý thuyết cân bằng: hành vi con người dựa trên cơ sở thông tin, nhận thức hoàn hảo cho nên giá cả thị trường luôn có xu hướng chạy về điểm cân bằng.
Sự thực là nhận thức không hoàn hảo và luôn sai nên "thị trường rời khỏi trạng thái cân bằng với tần suất cũng ngang với chúng tiến lại trạng thái cân bằng ấy". Khi ấy, thị trường không tuân theo quy luật cân bằng mà tuân theo quy luật bùng-vỡ (boom-bust). Giá cả tăng theo kiểu "bong bóng" rồi nổ tung dẫn tới sụp đổ, phá sản hàng loạt chứ không tự điều chỉnh cân bằng.
Đó chính là khủng hoảng và theo Soros thì nhiều cuộc khủng hoảng tài chính đặc biệt là cuộc khủng hoảng hiện nay đã diễn tiến theo mô thức đó.
Mô thức tài chính mới của một "kẻ đầu cơ"
Từ triết học, Soros chuyển bước sang lĩnh vực sở trường của mình là tài chính. Nhân vật được mệnh danh là "Robin Hood tài chính" đã lý giải đâu là những ngộ nhận dẫn tới quá trình bùng-vỡ tạo ra cuộc khủng hoảng trầm trọng hiện nay.
Theo Soros, quá trình bùng-vỡ này không chỉ là hệ quả của một bong bóng bất động sản như lý giải của các nhà nghiên cứu khác mà còn của một siêu bong bóng kéo dài 25 năm qua. Mọi bong bóng đều bao gồm một xu thế chủ đạo và một ngộ nhận chủ đạo tương tác với nhau theo kiểu phản thân.
Như nhiều nhà quan sát khác, Soros cho rằng xuất phát điểm trực tiếp tạo ra cuộc khủng hoảng hiện nay là sự hình thành của bong bóng trên thị trường bất động sản Hoa Kỳ. Bong bóng này là kết quả từ xu hướng chủ đạo là việc FED hạ lãi suất liên tục xuống còn 1% để kích thích nền kinh tế sau khi bong bóng công nghệ nổ tung năm 2000 và sự kiện khủng bố 11/9/2001. Lãi suất thấp kéo dài tới giữa năm 2004 đã tạo ra bong bóng bất động sản quy mô lớn.
Soros cũng cho rằng một trong những xuất phát điểm dẫn tới
cuộc khủng hoảng hiện nay là hiện tượng "bong bóng bất động sản"
Nguồn: thefinancialhelpcenter.org
Tín dụng lỏng và rẻ đã khiến người đi vay "nô nức" vay còn kẻ cho vay thì tìm mọi cách tối đa hóa lợi nhuận bằng cách nới lỏng các tiêu chuẩn cho vay thế chấp. Người có "xếp hạng mức độ tín dụng kém cũng dễ dàng vay được tiền mua nhà" (các khoản vay dưới chuẩn). Những người có ít hoặc không có giấy tờ chứng minh thu nhập thậm chí không thu nhập, không nghề nghiệp, không tài sản, cũng có thể vay để mua nhà với tài sản thế chấp là chính căn nhà đó.
Cầu nhiều tất giá nhà đất càng được đẩy lên theo kiểu "bong bóng", dẫn tới hiện tượng đầu cơ tràn lan. Đa số "con bạc" trong cuộc chơi này đều ngộ nhận rằng: "giá trị của tài khoản cầm cố nhà đất đó không bị ảnh hưởng bởi sự sẵn lòng cho vay". Giá vẫn lên và tất cả "vẫn phải đứng dậy và tiếp tục khiêu vũ" theo lời chủ tịch CitiBank Chuck Prince. Ngộ nhận rằng giá trị tài sản cầm cố không thể suy giảm với độ mở tín dụng như vậy đã khiến người ta lao vào một cuộc chơi bùng nổ rồi vỡ tan chứ không quay về điểm cân bằng.
Điểm khác biệt hơn trong lý giải của nhà tài chính năm nay 78 tuổi George Soros là ở chỗ ông đã phóng chiếu một tầm nhìn rộng hơn về một bong bóng khác mà ông gọi là siêu bong bóng. Bong bóng này là sự phình đại tín dụng mang tính toàn cầu, bãi bỏ những quy định kiểm soát thị trường chặt chẽ và làm "nảy nòi" hàng loạt những "phương pháp và công cụ tài chính mới, tinh vi đễn nỗi giới điều tiết cũng mất luôn khả năng tính toán những rủi ro đi kèm."
Là "người trong chăn" của giới tài chính, Soros quá thấu hiểu và đưa ra những thông tin rất cụ thể về những công cụ tài chính phức tạp, đan xem nhau đã góp phần tạo ra cuộc khủng hoảng dây chuyền ở phố Wall.
Các ngân hàng cho vay thế chấp bất động sản đã tối thiểu hóa rủi ro của họ bằng cách đóng gói chúng lại thành những chứng khoán có tên gọi giấy nợ có thế chấp (CDOs). Các CDOs này được bán lại cho các nhà đầu tư và trở thành một "cơn cuồng" từ năm 2005. Hơn thế nữa, các quỹ đầu tư phòng hộ (hedge fund) lại bước vào thị trường bảo hiểm cho các CDOs này theo các hợp đồng hoán đổi vỡ nợ tín dụng (CDSs), một hình thức bảo hiểm trong trường hợp xảy ra vỡ nợ.
Rồi khi giá trị của những CDOs bị nghi ngờ, các ngân hàng đầu tư lại đưa chúng ra khỏi bảng cân đối tài sản và đưa vào những công cụ đầu tư kết cấu (SIVs). Các SIVs cung cấp tài chính cho các khoản đầu tư này bằng cách phát hành những thương phiếu được đảm bảo bằng tài sản… Các công cụ tài chính phức tạp mới được phát minh lại dựa trên một cơ sở thiếu lành mạnh là việc cho vay thế chấp địa ốc dưới chuẩn, tất cả đã dẫn tới sự sụp đổ của các "ông lớn" ở phố Wall.
Soros cho rằng, siêu bong bóng hình thành dựa trên xu hướng chủ đạo là những công cụ tín dụng ngày càng mở rộng và phức tạp hơn. Ngộ nhận chủ đạo ở đây là sự tin cậy thái quá vào cơ chế thị trường. "Chủ nghĩa thị trường đã trở thành một tín điều thống trị Hoa Kỳ vàơ năm 1980 khi Ronald Reagan trở thành tổng thống Hoa Kỳ và Margaret Thatcher trở thành thủ tướng Anh."
Theo Soros thì chủ thuyết này sai lầm ở chỗ nghĩ rằng thị trường luôn hoàn hảo và trở về cân bằng. Nhưng thực tế đã chứng minh ngược lại ở thị trường tài chính, nếu cứ để mặc cho thị trường phát triển với những phương pháp và công cụ tinh vi của nó thì tất yếu "sẽ đi tới những trạng thái cực đoan" như cuộc khủng hoảng đang diễn ra.
George Soros đã khá đáng yêu khi thừa nhận rằng mặc dù lý thuyết của ông đã được công bố nhiều năm nhưng "không được giới hàn lâm coi là nghiêm túc", và "chính tôi cũng nghi ngờ không hiểu những điều tôi nói có mới và ý nghĩa hay không?"
Ảnh hưởng bởi triết học Popper, Soros khiêm tốn nhận định "chân lý tối hậu nằm ngoài tầm với của con người" và những suy nghĩ của ông "không phải là kết luận mà chỉ là sự khởi đầu."
Nội dung khác
Review sách “Trí tuệ giả tạo – Internet đã làm gì chúng ta”
17/05/2019Tóm tắt nội dung 'Triết học Hội Tụ'
06/12/2021TS. Nguyễn Bá TrinhCố thủ tướng Lý Quang Diệu chỉ ra điều người Nhật vượt trội tất cả các quốc gia châu Á, riêng Singapore mất 10-15 năm mới gần bằng họ
31/12/2018L.TPhật giáo trong thời đại chúng ta
14/11/2018Nhiều tác giảNhững quy luật Tâm lý về Sự Tiến Hóa của các Dân tộc
28/05/2017Gustave Le BonDẫn nhập về hạnh phúc
08/06/2016Ghi chú về nghệ thuật
25/10/2008Nguyễn QuânKhi những nỗi sợ hãi không còn... đáng sợ
16/10/2008Hương GiangNền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản
29/09/2008Minh Bùi tổng hợpSự sụp đổ của Northern Rock
26/09/2008Chủ nghĩa duy vật nhân văn
08/09/2008TS. Hồ Bá ThâmWikinomics: Sự cộng tác đại chúng đã làm thay đổi thế giới như thế nào?
27/08/2008Anthony D. Williams. Don Tapscott