Triết học là gì?

04:54 CH @ Thứ Sáu - 16 Tháng Ba, 2007

Xác định

Trong quyển sách Triết họcvà Văn chương xuất bản cách đây hơn 20 năm (1974), tôi đã viết:

“Mục tiêu không phải là triệt hủy, nhưng là giải giới kiến tạo những khái niệm nền tảng của siêu hình học về hữu thể, ý nghĩa, hiện diện đã giới hạn logos, lý trí vào một loại “vòng rào". Chính vòng rào này đã tạo ra thành kiến kỳ thị tư tưởng Đông Tây, gây nên phản ứng “ bế quan tỏa cảng" trong học thuật, xây dựng thần học hữu thể và đạo học thần bí. Cẩn phải phá hủy vòng rào này. Chính trong vị thế khó khăn đó, người ta lầm tưởng là có sự phá sản nhưng thực sự giới hạn không phải là cáo chung”.

Triết học không bị vượt, nhưng phải giải giới kiến tạo triết học, thiếtđịnh hệ thống cơ cấu những khái niệm triết lý một cách trung thực, khám phá vùng “bên ngoài" cái vòng rào đã áp đặt mình trong lịch sử. Đó là những công trình khảo sát lịch sử triết học của HồThích, của Kojève.

Giải giới kiến tạo hay hủy tạo mượn từ khái niệm deconstructioncủa J. Derridađã trở thành một khái niệm phổ biến trong giới phê bình văn chương Mỹ trong khoảng một thập niên sau, trước khi trở thành một vấn đề triết lý bắt nguồn từ khái niệm Destruktrơn(hủy triệt) của Heidegger trong dự thảo chương vượt siêu hình học Tây phương. Cả hai khái niệm hủy tạovà hay diệtđấu dẫn tới vấn đề cáo chungcủa triết học. Có thật triết học đã cáo chung?

Vấn đề cáo chungít ra mang hai ý nghĩa: sự hoàn tấtnhiệm vụ của triết học, hoặc sự tận cùngcủa triết học. Cả hai đều có thể áp dụng đối với hệ thống triết học Hegel bởi vì nhiệm vụ triết học là thực hiện sự hoàn tất hệ thống, khi đó triết học đi tới tận cùng đồng thời với sự hoàn tất của lịch sử. Nhưng thật sự, ý nghĩa của sự cáo chung triết học còn hàm ngụ triết học đã vận dụng hết những khả năng của nó, nghĩa là đồng thời tận dụng những khả năng của văn hóa, cũng là sự cáo chung của nhân loại.

Như vậy có thể đặt vấn đề cáo chung ở một viễn cảnh khác chăng? Ngày nay, vấn đề cáo chung của triết học ít ra cũng đã được đặt thành vấn đề từ Heidegger trong một tham luận ở hội nghị năm 1964 và một số nhà triết học sau ông.

Trong những chiều hướng Heidegger phân tích, triết học cáo chung hàm ngụ:

Triết học đã hoàn tất vì "triết học là siêu hình học".

Triết học là "sở cứ " vì toàn bộ lịch sử triết học đã tập đại thành trong khả năng tột cùng của nó.

Khởi sự của nền văn minh thế giới xây dựng trên tu duy TâyÂu vì sự toàn thắng của thế giới khoa học kỹ thuật và trật tự xã hội thuộc riêng thế giới này.

Khi thông tin sự cáo chung, triết học cũng mang ý nghĩa đặt định nhiệm vụ của tư tưởng của thời đại mới. Có thật sự một thời đại đã chấm dứt và một thời đại mới bắt đầu?

Đặt vấn đề cơ sở (Grund - Grundlagen) của một thời đại như H.G.Gadamer đã nhận định “nhằm vào những điều không hiển nhiên ngay đó, nhưng đã in dấu toàn diện trực tiếp ở những gì hiện diện chung quanh ta". Sự hoàn tất triết học ở thế kỷ XIX có thể được ghi nhận ở nỗ lực nhận thức triết học và khoa học như một thể thống nhất trong hệ thống Hegel. Sự khác biệt về trật tự hệ thống xã hội, ảnh hưởng của sự điều khiển khoa học - kỹ thuật trong "mọi sinh giới đến mức khuôn đúc công luận", xác quyết về hữu hạn và những giới hạn của hiện hữu con người qua tư tưởng hiện sinh cùng với định hướng tri thức khách quan thông qua khoa học là những vấn đề của thế kỷ XX khởi từ những năm sau Thế chiến thứ nhất. Gadamer đã chỉ ra tính chất phác về xác quyếtvì khái niệm xác quyết gắn liền với khái niệm phán đoán thuần túy chỉ có tính cách trừu tượng, tính chất phác về phản tỉnhvì hoàn cảnh giới hạn của hiện sinh chỉ ra không thuộc nhận thức khách thể hóa, tính chất phác về khái niệmvì triết lý không có nghĩa là định nghĩa, như Heidegger nhận định ngôn ngữ là một cách lý giải thế giới trước mọi thái độ phản tỉnh, những quan điểm chỉ ra là những nhận định thừa kế của chủ nghĩa duy tâm Đức không còn giá trị đối với phê phán ý thức chủ quan qua những tư trào ở đầu thế kỷ. Tuy nhiên, theo Gadamer, với những phong trào hiện tượng luận và thông diễn học (Hermeneutik) ngự trị triết học hiện đại thì những nhà tư tưởng lớn của Hy Lạp cùng Kant và Hegel vẫn là những khuôn mặt lớn trong đối thoại triết lý vì tính chống chủ nghĩa giáo điều về khái niệm, phân định giữa nhận thức và tư ngã, cũng như khái niệm về tinh thần nơi Hegel ảnh hưởng đến cơ sở tư tưởng của thời đại chúng ta.

Ngày nay với vấn đề đặt lại vị thế của chủ thể, phê phán tha hóa của tự thức lý luận về tín hiệu, vai trò của ngôn ngữ bình thường đã chỉ ra những quan tâm mới trong tư tưởng của thời đại. Trên một bình điện nào đó, có thể nói tư tưởng không còn xây dựng trên cơ sở của nửa thập kỷ đầu nữa mà đang ở vào tình trạng khủng hoảng của thời quá độ.

Có thể xác định thời quá độ? Nếu như những Nietzsche, Kierkegaard và Marx chấm dứt thế kỷ của Hegel trước khi bước chuyển tiếp cho những trào lưu hiện tượng luận, phân tâm học và hiện sinh xác định thế kỷ của chúng ta, thì với sự phê phán chủ nghĩa Marx, hậu hiện đại, hậu cấu trúc luận, sự gặp gỡ giữa triết học lục địa truyền thống và triết học Anh - Mỹ (ít ra là sự đối đầu giữa triết học phân tích, chủ nghĩa thực dụng và thuyết hủy tạo) có thể là dấu mốc của thời quá độ.

Có thể xác định thời quá độ vì chuyển tiếp của thế kỷ, không hẳn theo niên biểu, nhưng những vấn đề đặt ra chưa chứng thực là những dấu hiệu của thế kỷ kế tiếp. Sự kế thừa những di sản của giai đoạn hậu hiện đại, xã hội cộng sản, xã hội tư bản cũng như quá trình tiến hóa hậu công nghiệp đã đưa ra những vấn nạn về sự cáo chung của lịch sử (chỉ khác biệt ở chỗ khủng hoảng của thời hậu chiến thứ hai dẫn tới viễn cảnh bi quan về cái chết của con người, còn sự khủng hoảng của thời hậu lịch sử là tuyệt lộ của tư tưởng?)

Trong mê cung của tư tưởng, có người đã tự hỏi: phải chăng cách thế ngụy thức hai mặt đang thống trị? Hoặc có thể còn đặt vấn đề triết lý khi triết học đã chết?

Đặt vấn đề triết lý ngay trên những tiền đề về cái chết của triết học có phải là mâu thuẫn nội tại, hay không thể tận được những chân nguyên lý vì đã không tìm thấy trong quá khứ? Có thể mượn lới của Fichte để chỉ ra là một căn cứ như vậy không đáng cứu xét”.

Vấn đề căn nguyên của cơ sở tư tưởng

Vấn đề triết lý đầu tiên là hỏi ngay chính bản thân triết học là gì? Một triết gia Đức như MartinHeidegger vào cuối đời cũng đã viết một tác phẩm nhan đề: “Was ist das - die Philosophie?"

Deleuze và Guattari, hai nhà tư tưởng Pháp đã viết chung vời nhau nhiều tác phẩm, sau cùng cũng đã viết chung tập sách nhan đề: "Qu/ est-ce quela philosophie?"

Deleuze and Guattari:

Trong văn chương mới của Nga, một nhà văn trẻ, Sasha Sokolov, đã lấy đề từ một phiên khúc của Pushkin đặt tên cho tiểu thuyết của ông Mezhdu sobakoi i volkom.Giữa chóvà sói, chto nazavana pora mezh volka I sobakiicâu thơ trong EugeneOnegin diễn tả thời khoảng chạng vạng:

Lúc một ngày đã xong và người ta có thể ngồi nhâm nhi tán gẫu.

Đó cũng là lúc người chăn bầy không thể phân biệt được giữa chó gác và sói rừng.

Lúc tranh sáng tranh tối mơ hỗ giữa mộng và thực.

Những biến cố trong tiểu thuyết của Sokolov diễn ra trong cảnh tranh sáng tranh tối mông muội đó.

Không phải tình cờ quyển sách của Gilles Deleuze và FelixGuattariQu/ est-ce que la philosophie?cũng khởi đầu từ một chợn lựa như vậy.

Nhưng vấn đề "Triết học là gì?" chỉ đặt ra khi tuổi già đã đến. Đó không phải là một ẩn dụ, mà là một tự vấn, giống như soi mình tronggương. Triết lý quả thực có thể nhìn qua tấm gượng soi. Khi viết quyển sách này, Deleuze đã ở vào tuổi 66 và Guattari đã 61.

Hỏi triết họclà gì?có lẽ chỉ xảy đến vào lúc xế bóng, khi người ta không còn gì để hỏi nữa.

Hỏi cũng có nghĩa là tự vấn sau khi đã bước vào lãnh địa triết học, để hỏi triết học là gì với những điều đã làm suốt một đời.

Hỏi chỉ có nghĩa là tự vấn suốt một hành trạng già nua cằn cỗi của lịch sử triết họcnhưng cũng có thể là ngay chính hành trạng của triết gia. Hỏi vì không tin triết học đã đạt tới cứu cánh, nghĩa là đã cáo chung. Tuổi già, như Deleuze và Guattari viết, không mang lại một thanh xuân vĩnh cửu nhưng trái lại mang cho một tựdo cao ngạo, một tất yếu tinh khiết ở đó con người vui hưởng một khoảnh khác ân sủng giữasự sống và cái chết.Đó là cái khung cảnh không gian trong tiểu thuyết của Sokolov với những diễn biến xảy ra ở dòng Volga thượng, mà cái tên cổ của miền Tartar là Itil, quang cảnh trung tâm của thế giới về mặt địa chí hình thể cũng như siêu hình vào lúc tranh sáng tranh tối mông muội, bởi nguồn nước Stygian chia đôi miền sống và chết.

Người la không thể tưởng tượng viết một quyển sách mang tên Triết họclà gìkhi người ta còn trẻ. (Một nhà danh họa như Tumer vào tuổi già đã có thể đưa hội họa vào con đường đơn độc không cần tranh biện, một tác phẩm như La vie de Rancécủa Chateaubriand ở tuổi già đã khẳng định quyền năng của chữ viết và mở đầu văn chương mới, trong triết học Kritik der Urteilskraftcủa Kant cũng là một tác phẩm viết vào lúc tuổi già, ở đó những quan năng của tinh thần vượt khỏi nhũng giới hạn). Đây là lúc người ta có thể đặt vấn đề tìm hiểu triết học là gì và câu trảlời phải chờ tới một thời điềm, mộtcơ hội, những hoàn cảnh, những quang cảnh và nhânvật, những điều kiện và những ẩnsố của câuhỏi.

Hỏi và trả lời như thế nào? Deleuze và Guattari đã trả lời trong một cách thế ẩn mật như tiểu thuyết của Sokolov là người ta có thể đặt vấn đề "giữa những thân hữu” như một tâm sự hay tin cậy, hoặc có thể đối diện với kẻ nghịch như một thách đố, và cùng lúc chờ đợi vào cái thời điểm giữa chó và sói lúc chạng vạng tranh tối và sáng lúc con người bất chấp ngay chính thân hữu?

Inter canem et lupumdầu sao câu trả lời cũng đã có ở đó, không thay đổi: triết học là nghệ thuật hình thành, phát kiến, chế tác những khái niệm.

Những khái niệm Deleuze, Guattan xác định cần những nhân vật khái niệm.

Thân hữulà một nhân vật như vậy bởi vì người ta có thể nói nó chính là chứng nhân của căn nguyên Hy Lạp trong triết học philosophie. Khái niệm gắn liền với nhân vật, thân hữu bởi chỉ ở triết học Hy Lạp như Kojève nhận định người Hy Lạp đã chôn vùi hiền thánh và thay thế bằng triết gia, những thân hữu của minh trí đi tìm minh trí nhưng không chiếm hữu. Có thể nói rõ hơn là thánh hiền đến từ phương Đông, nhưng thánh hiền có lẽ suy nghĩ bằng Hình tượng còn triết gia phát kiến và suy nghĩ bằng Khái niệm.

Thân hữu ở đây không phải chỉ là làm bạn với triết gia như Platon, mà làm bạn với minh trí, với điều chân hay thật.Thân hữu như vậy là một hiện diện nội tại trong tư duy, một điều kiện khả hữu của chính tư duy, một phạm trù sống, một sinh động siêu nghiệm. Triết gia chính là thân hữu của khái niệm, lũy tiến theo khái niệm. Như vậy triết học không những hình thành hay phát kiến những khái niệm, mà còn là một bộ mônnhằm sáng tạora những khái niệm.

Sáng tạo những khái niệm mời, đó là đối tượng của triết học như Nietzsche đã xác định nhiệm vụ của triết học.

Mọi khái niệm, như Deleuze và Guattari nói rõ, có những cấu thành, và khái niệm được xác định bằng những cấu thành này. Ngay cả khái niệm đầu tiên, nghĩa là khái niệm mà một tariết học khởi đầu cũng có nhiều cấu thành vì không có gì hiển nhiên là triết học phải có một khởi đầu, bởi xác định một khởi đầu cũng đi từ một quan điểm hay một nguyên do. Chẳng hạn những triết gia khác biệt như Descartes, Hegel hay Feuerbach không khởi đầu từ những một khái niệm, mà cũng không có cùng một khái niệm khởi đầu.

Mọi khái niệm đều có một lịch sử, chẳng hạn như khái niệm tha nhân dầu lịch sử này diễn ra theo đường ngoằn ngoèo, một chuyển biến vì quan hệ với khái niệm khác trên cùng một bình diện, một khởi sinh dị biệt nghĩa là sắp xếp những cấu thành qua những khu vực lân cận, một vô thể mặc dầu nó được hiện thực trong những vật thể (khái niệm nói lên diễn biến, không phải yếu tính hay sự vật, như Deleuze đã nói đến khái niệm lektoncủa triết học Khắc kỷ trong tác phẩm Logiquedu Sens).

Khái niệm vừa tương đối với những cấu thành riêng của nó cũng như với những khái niệm khác, trên bình diện nó giới hạn và những vấn đề phải giải quyết vừa tuyệt đối vì khai triển sự tụ hội, giữ sở cứ và những điều kiện ấn định cho vấn đề. Cho nên triết gia không ngừng quyền biến những khái niệm, ví như Leibniz đã phát biểu: "Tôi tưởng vào đến bến, nhưng lại bị thẩy ra giữa biển khơi". Khái niệm không mang tính biện luận, và triết học không là một hình thành biện luận vì nó không mang những tiền đề giống như các khoa học. Sự khác biệt giữa triết học và các khoa học là ở đó. Deleuze và Guattari đã mượn khái niệm agôntrong từ ngữ Hy Lạp để chỉ sự đối nghịch: giống như biện chứng mà Platon xác định trong khái niệm amphisbetesis.Cho nên triết học không phải là chiêm ngưỡng vì những chiêm ngưỡng là chính những sự vật được nhìn trong sáng tạo ra những khái niệm, không phải phản trạng vì người ta không cần đến triết học để phản ảnh bất kỳ điều gì (chẳng hạn nhà toán học không cẩn nại tới triết học để phản ảnh toán học), cũng không thường trụ trong thông giao, vì thông giao tương ứng với những tư kiến chứ không phải những khái niệm.

Trong tương tranh đối nghịch với triết học ngày nay là những khoa học nhân văn, nhất là khoa xã hội học hay mọi bộ môn thông giao như thông tin học, thị trường học, quảng cáo, vẽ kiểu... Triết học cũng khởi sự với những câu, nhưng trong khi khoa học rút ra những viễn cảnh, nghệ thuật rút ra những tri thức và giác thức thì triết học rút ra những khái niệm.

Những khái niệm triết học như Deleuze, Guattari nhận định chỉ là những toàn mảnh không thể tự điều chỉnh mà phải có một tương ứng của bình diện nội tại. Triết học mang hai bộ diện bổ túc cho nhau, đó là sáng tạo ra những khái niệm và vạch ra một bình diện. Hai bộ diện này phân định rõ, ví như nếu triết học khởi sự với sự sáng tạo khái niệm thì bình diện nội tại phải coi như tiễn triết học. Điều này có thể thấy rõ nơi mỗi triết gia vì bình diện nội tại là một lĩnh hội phi khái niệm, chẳng hạn nơi Descartes là một lĩnh hội chủ quan và tiềm ẩn được giả định bởi cogito như khái niệm đầu tiên, ở Heidegger là một lĩnh hội tiễn hữu luận của Hữu thể. Nói khác đi, triết học đã phải giả định một cái gì là phi triết không phải tiền hiện mà có lẽ ở ngay trong lòng triết học (tôi sẽ trở lại vấn đề này ở phần sau). Như đã nói ở trên, triết học bao gồm sáng tạo những khái niệm là khởi đầu của triết học, nhưng bình diện nội tại cấu thành lãnh địa tuyệt đối của triết học). Chính trong bình diện nội tại trong thời hiện đại, người ta "muốn nghĩ siêu nghiệm ngay trong nội tại và chính nơi nội tại người ta đạt tới sự đoạn tuyệt" biểu hiện ba loại Phổ quát là chiêm ngưỡng, phản trạng và thông giao của ba thời đại triết học là ý tượng luận, Phê phán luận và Hiện tượng luận không xa rời lịch sử của một huyễn tưởng triền miên. Xác định bình điện nội tại không phải siêu nghiệm, đó là khởi sự những triết gia thứ nhất, đối nghịch với hiền thánh, đó là lý do tại sao Deleuze gọi Spinoza là cự phách của mọi triết gia vì có lẽ Spinoza là người duy nhất không qua một thỏa hiệp nào với siêu nghiệm, và tại sao Deleuze đã chọn lựa những triết gia nội tại như phái Khắc kỷ, Spinoza, Bergson, Nietzsche.

Triết học như vậy tọa thị trên nền Đất, ờ đó thời gian của triết học là một thời gian địa tầngtrước và sau chỉ là một trật tự lớp lớp chồng chất lên nhau: triết học là chuyển biến, không phải lịch sử, nó là sự cộng hiện nhũng bình diện, không phải sự kế tiếp những hệ thống.

Mọi người đều có khả năng tư duy, nhưng ngoài hai yếu tố khái niệm và bình diện nội tại côn một yếu tố cơ bản nữa là những nhân vật khái niệm. Lấy trường hợp Descartes để trình bày:

Có mộtđiều gì ngoài cogito được chế ra và ảnh tượng giảđịnh của tư tưởng? Thực sự có một cáigì huyền nhiệm hiện ra đôi lúc hay xuất hiện có vẻ hiện hữulờ mờ, chen giữa khái niệm và bình diệntiền niệm, đi từ cái nọ qua cái kia. Đó chính là Kẻ Ngốc chính hắn xưngTôi, chính hắn tung ra cogito, nhưng cũng chính hắnđề ra nhữngtiền đề chủ quan hay vạch ra bình diện. Kẻ ngốc chính là nhàtư tưởng tư riêng đối lậpvới vị giáosư công khai (nhà kính viện): nhàgiáo thì không ngừng đưa đến nhữngkhái niệm để giảng dạy (người- là con vật cólý trí) trongkhi nhà tưtưởng tư riêng hình thành mộtkhái niệm với những sức mạnh tiên thiên mỗi người cóquyền đắc thủ (tôi tư duy). Đó là một loại nhân vật rất kỳlạ, muốn nghĩ và nghĩ cho chính mình, bằng “ánh sáng tự nhiên". Kẻ ngốclà một nhân vật khái niệm.

Nhân vật khái niệm kẻ ngốc có thể thấy trong tư tưởng Nicolas deCuse, Eudoxe trong triết học Descartes, trong tác phẩm của Dostoievsh. Sự khác biệt giữa kẻ ngốc xưa và nay ở chỗ kẻ ngốc xưa muốn cái thật còn kẻ ngốc nay muốn tạo cái phi lý là quyền năng tối thượng của tư tưởng. Những nhân vật khái niệm như Socrate của Platon, Dionysos của Nietzsche là chủ thể hay chuyển biến của một triết học.

Triết học trình ra ba yếu tố. nội tạiđể vê ra bình diện tiền triết, cố chấpđể phát kiến và tạo sự sống cho những nhân vật phò triết, cốt cáchđể sáng tạo ra những khái niệm triết. Những nét khác biệt như cảm thụ, quan hệ, năng động, duy pháp, hiện sinh là những cá tính ở những nhân vật khái niệm trong các nguồn tư tưởng.

Tư tưởng không phải là dây liên hệ giữa chủ thể và khách thể, nhưng trong quan hệ của lãnh địa và đất. Người ta có thể thấy một ý tưởng về một cách mạng kiểu Copemic nơi Kant không phải là những phạm trù chủ thể và khách thể mà là đặt tư tưởng trực tiếp quan hệ với đất, ở Husserl cũng có yêu cầu đất như một trực giác nguyên ủy cho tư tưởng.

Đấtlà ngưỡng của nguyên thuỷ mở vào Nguyên sử xác thân.Cho nên không những có một lịchsử triết học, côncó một địa chí triết học.

Deleuze, Guattari đã dành Chương IV để nói về địa chí triết học. Sau Husserl và Merleau-ponty, Deleuze và Guattari đã chú trọng đến vị trí của Đất khi nói đến những vận động giải cát cứ và tái cát cứ là những quan hệ của nội tại và siêu nghiệm, của Quốc gia và Đô thị, của phương Đông và phương Tây.

Dẫn lời của Jean-pierre Faye, Deleuze và Guattari chỉ ra là những triết gia như những người khách lạ đến từ phương Đông, nhưng tại sao lại chọn Hy Lạp làm môi trường triết học, vì ở đây phát triển những điều kiện như một xã tính thuần túy làm môi trường nội tại, một lạc thú quần hội cấu thành thân hữu và một thống khoái về tư kiến. Tư tưởng nhằm đưa ra một môi trường nội tại để thu hút đất, cho nên có sự khác biệt giữa minh trí và tôn giáo với triết học vì một đằng tư duy bằng những hình tượng như lục hào Dịch, pháp luân An, thánh tượng Kitô... một đằng tư duy bằng khái niệm.

Hình tượng cần những phóng chiếu đến từ siêu nghiệm còn khái niệm tiếp cận và liên hệ ở bình diện nội tại. Khi một tư tưởng như tư tưởng Thiên chúa giáo muốn có những khái niệm, nó phải qua con đường vô thần, chủ nghĩa vô thần không là một thảm kịch, mà là sự thanh thản của triết gia và đắc thủ của triết học. Có thể nói đến một triết học Trung Hoa, Ân Độ, Do Thái, Hồi Giáo với điều kiện tư duy trên một bình diện nội tại. Triết học sở dĩ tồn tại ở Hy Lạp vì nó gắn liễn với thường hằng hơn là tất yếu, cảnh giới hơn là nguồn gốc, chuyển biến hơn là lịch sử. Mối liên lạc của triết học hiện đại với chủ nghĩa tư bản cũng giống như mối liên lạc của triết học cổ đại và Hy Lạp. Chính ở đó có thể thấy viễn cảnh của triết học hiện đại vì nó không còn là thân hữu của chủ nghĩa tư bản nữa, như triết học cổ đại không gắn bó với đô thị Hy Lạp:

Triết học đưa tới tuyệt đối sự giải cát cứ tương đối của tu bản, qua bình diện nội tại như một vận động của vô hạn và tiêu diệt nó như một giới hạn bên trong, làm cho nó quay lại chống nó,để dẫn đến mộtmiền đất mới một dân tộc mới.

Tiếp nối những nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản trong quan hệ triết học hiện đại qua tác phẩm L'anti-oedipe,Deleuze và Guattari nhận ra mối quan hệ cấu tạo giữa triết học và phi triết học trong chuyển biến kép, ở đó "triết gia phải trở nên một người không phải là triết gia, để phi triết học có thể trở thành đất và dân của triết học".

Heidegger

Was ist das- me Philosophie?là một bài giảng tại Cérisy-la-Salle ở Normandy vào tháng tám năm 1955, khi đó Heidegger đã 66 tuổi. Kể từ đó đến nay cũng gần nửa thế kỷ và khoảng 28 năm sau khi tác phẩm chính Sein und Zeitđược xuất bản. Những người đọc Heidegger đều nhận xét thấy sau Sein und Zeit.Heidegger đã không hoàn tất phần hai. Nếu đúng như đề cương ở phần Mờ Đầu, phần hai gồm ba phân đoạn:

1. Học thuyết về giản đỗ và thời gian của Kant như một giai đoạn tiên đế về vấn đề thời tính.

2. Cơ sở hữu thể luận trong lý luận “cigito sum" của Descartes và lý do tại sao hữu thế luận thời Trung cổ đã nhường bước cho vấn đề "res cogitans".

3. Tiểu luận về thời gian của Aristote như đưa ra một con đường phân biệt nền tảng hiện tượng và những giới hạn của hữu thể luận cổ đại.

Dự tính đã bị bỏ hẳn vì như Heidegger viết trong lời tựa lần in thứ bảy là phải viết mới lại phần nhất nếu như thêm phần hai. Quả thực, những vấn đề trong phân đoạn 1 có thể được đề cập trong Kant und das Problem der Metaphysik,luận vế thời gian của Aristote thấy trong Die Grundprobleme der Phanomenologie,và vấn đế cogito sum của Descartes được bàn đến trong giảng khóa sơ kỳ năm 1940 tại Freiburg, in lại trong tập IV bộ Nietzsche. Cũng như đối với những trường hợp của nhiễu nhà tư tưởng lớn, người ta thường phân chia tác phẩm của Heidegger ra làm hai thời kỳ: Heidegger I và II Tôi không thảo luận vấn đề này ở đây, nhưng khi đề cập đến tập sách Was ist das-die Philosophie?không thể không đối chiếu với Sein und Zeitvà ở đó sẽ thấy lộ ra những điểm tiếp nối và phân cách giữa một Heidegger/ hiện tượng luận và một Heidegger/hậu hiện tượng luận.

Mở đầu bài giảng Triết họclà gì?Heidegger khẳng định chỉ có thể thảo luận vấn đề này khi đưa vào một con đường việc chúng ta đầu tiên phải làm là đưa câu hỏi vào một con đường định hướng rô để chúng ta không bị lúng túng quanh khái niệm triết học. Nhưng làm thế nào chúng ta tìm ra được một con đường để chúng ta có thể xác định vấn đề của chúng ta một cách tin cậy? Con đường mà tôi chỉ ra đây nằm ngay trước mặt chúng ta. Và chỉ.vì nó là con đường gần tầm tay nhất lại khó tìm thấy... Từ ngữ "triết học" được nói đến ở đây bằng tiếng Hy Lạp. Từ ngữ như từ Huy Lạp là một con đường. Từ Hy Lạp philosophialà một con đường chúng ta phải đi.

Vấn đề ở đây là nghevà ngôn ngữ.Nghe như thế nào và ngôn ngữ nào?

J. Derrida trong một bài viết dành cho hội thảo quốc tế tại Đại học Loyola ở Chicago tháng chín năm 1989 kỷ niệm 1.000 năm ngày sinh của Heidegger, đã phát hiện từ một câu trong Sein und Zeit: "als Horen der stimme des Freundes, den iedes Dasein bei sich tragt”) để bàn về vấn đề mà Derrida gọi là Philopolemology.Cũng trong bài viết này, bất ngờ Derrida dã đặt chủ điểm vào tác phẩm Was ist das-die Philosophie?Heidegger đã thuyết trình tại Pháp 34 năm trước.

Những chủ điểm nêu ra như nghe- thân hữu- philein- đấu tranhlà những vấn đề đã bàn đến .ở phần trên qua tác phẩm của Deleuze-guattari.

Câu văn trích dẫn trên trích ra từ chương 34 nhan đề: Dasein und Rede. Die Sprache(Hiện hữu và Diễn từ. Ngôn ngữ).

Nghelà một vấn đề triết lý khác hẳn với vấn đề Nhìn(mà Martm lay đặt để trong triết học hiện đại. X. Downcast Eyescủa M. Jay). Nghe là một khả năng hiện sinh thuộc về nói vời chính mình như Heidegger đã xác định trong Sein und Zeit:

Nghe cấu tạo sự khai mở công chính và nguyên ủy của hiện hữu cho tiềm năng hiện hữu nhất". Nghe cấu thành của diễn từ và hiện hữu nghevì hiểu được.

Khả năng khai mở của hiện hữu để nghe tiếng nói của kẻ khác như thân hữu thì tuyệt đối có tính cách nguyên ủy vì tiếng nói của thân hữu không ở tự tại nhưng ở trong tôi, nhưng cũng không ở trong tôi như một hiện hữu vì hiện hữu không là "ngã", mà cũng không là "tôi". Cho nên mặc dầu tiếng nói không ở trong nó, hiện hữu cưu mang thân hữu khi cưu mang tiếng nói.

Derrida đã nhận ra những liên hệ giữa những chủ đề như Nghe(Horen, Horigkeit), Diễn từ, Ngôn ngữnói đến trong tác phẩm Sein und Zeitvới những chủ đề của Wasist das- me Philosophie?qua cái tai:

Xác định triết học (philosophia) như nghe tiếng nói và theo tiếng gọi của hữu thể, khả năng tương ngôn và đồng thuận.

Xác định con đường giải đáp vấn đề triết học không phải là đoạn tuyệt với lịch sửmà thu tập lịch sử trong ý nghĩa hủy triệt.

Vấn đề tìm hiểu philosophiacó thể đặt trở ngược về với từ philosophơsbắt nguồn từ Héraclite. Phileinhiểu theo nghĩa ho - molegein,có nghĩa là phát ngôn như thể Logos, tương ứng với Logos. Tương ngôn như vậy thì đông thuận với Sophon. Lý giải theo Hérachte: En Pantamọi hiện thể thống nhất trong Hữu, điều đó có nghĩa là Hữu tập hợp mọi hiện thể như thể Hữu, Hữu chính là Tập hợp - logos.

Heidegger viết: nghe một điều như vậy xem ra có vẻ tầm thường với cái tai của chúng ta, nếu không muốn nói là xúc phạm vì không ai cần phải bận tâm với điều mới hữu thuộc về Hữu. Tuy nhiên điều đó chính là khỏi sự ngạc nhiên, ít ra là đối với người Hy Lạp. Khác biệt giữa những người đi tìm Sophon với những nhà ngụy biện cũng là ở chỗ lý luận ngụy biện sẵn sàng đưa mọi giải đáp có sẵn trên thị trường. Giải đáp hay tương ứng với triết học, đạt tới Tương ngôn này cần phải mở sẵn tai nghe những gì triết học nói với chúng ta.Triết học hiểu theo nghĩa Hy Lạp philosophia.Triết học trên đường về Hữu của hiện thể, nhưng bước đường vào triết học không phải chỉ ở Platon hay Aristote như thể tất yếu của một quá trình biện chứng.

Giải đáp cho câu hỏi: triết học là gì? chỉ hiển nhiên khi đi vào con đường đối thoại với triết gia, nghĩa là nói với họ về những điều họ nói. Triết lý là ngôn ngữ của dối thoại.Đối thoại ở đây là đưa tư duy của chúng ta trên con đường gặp gỡ triết học. Đáp ứng như vậy cùng nghĩa với tương ngôn,Heidegger phân biệt:

Giải đáp không phảilà một biểu ngôn mà chínhlà tương ngôn đáp ứng hữu của hiện thể.

Con đường giải đápvấn đề của chúng ta không phải là đoạn tuyệt với lịch sử nhưng là một thu tập và biến đổi những gì diễn ra.

Một thu tập lịch sử như vậyđã mang ý nghĩa "Hủy triệt"mô tả ở chương VI trong Sein und Zeit.Đến đây Derrida rất đắc ý với điều ông muốn tìm gặp: hủy tạo hay đúng hơn "hủy triệt” cũng là một kinh nghiệm thu tập truyền thung, khi dẫn lại đoạn văn quan trọng đó:

Từ “Destruktion" nhằm chỉ ra một thu tập lịch sử như vậy. Ý nghĩa của từ nàyđã minh định trongSein und Zeit. Hủy triệtkhông mangý nghĩa tàn phá, nhưng hủy tạo,mang đi, không nói là trục xuất mà là dờichỗ, để sang một bên những biểu ngôn lịch sửvề lịchsử triếthọc. Hủy triệtcó nghĩa là mở rộng tầm taiđể có thề tự do truyền đạt đến chúng ta những gì đa diễn ra trong truyền thốngvề hữu của hiện thề.

Derrida cũng nhận định thấy là Heidegger kết án sự ngơ điếc của cái tai chung thông thường của con người hiện đại vì không nghe thấy sự khác biệt hữu thể, cũng không nghe thấy logos như thể tập hợp, vì không nghe nên cũng mù lòa trước vẻ huy hoàng của hữu thể tập hợp và chói sáng đã làm người Hy Lạp ngạc nhiên:

Đề nghe thấy được tin truyền này, chúng ta phải đi tới tương ngônnghĩa là nghe thấy tiếng nói hay tiếng gọi thông truyền.Triết học là tương ngôn từ hữu của hiện thể, hữu như vậy xác định ngôn từ theo cách nào để ngôn hòa hợp vớihữu của hiện thể. Platon và Aristote đã chú ý đến sự hòa hợp này như trong thiên Theatet 155dPlaton nói cảm tínhcủa một triết gia là phải ngạc nhiên, không có khởi điểm nào khác

Khi nhận xét bản tính tương lai của triết học, Heidegger nghĩ là chúng ta đi tìm cách nghe tiếng gọi của hữu: Sự hòa điệu nào trong tư tưởng hiện đại? Ông cho rằng sự hòa hợp cơ bản vẫn còn ẩn giấu vì tư tưởng hiện đại vẫn chưa tìm ra con đường rõ rệt.Tương ngôn là một cách nói, phụng sự ngôn ngữ. Nhưng quan niệm của chúng ta ngày nay đã thay đổi một cách kỳ quái, không còn là kinh nghiệm của người Hy Lạp về logos, "cách nói về hữu mà ta đáp ứng khi nghe rằng tư tưởng là nghe và nhìn”.

Phải chăng công việc triết học la công việc của một số ít người muốn cứu vãn điều kinh ngạc nhất là hiện thể trong hữu, khởi sự con đường về hướng sự việc kinh ngạc này, đó là sophon.Heidegger nói: Khi thực hiện điều này, họ phải trở thành những người đấu tranh cho sophonvà qua sự đấu tranh công chính này vẫn thức tỉnh và bảo vệ sự hoài niệm giữa những tha nhân.

Derrida gọi sự hoài niệm này là nguồn gốc của triết học.

Nguồn:
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Bí ẩn Châu Á trong tấm gương triết học Châu Á

    25/12/2017Hồ Sĩ QuýTriết học Châu Á hay là triết lý Châu Á không phải là một khái niệm triết học. Đây chỉ là một cách gọi tương đối. Nó khá mơ hồ, không đủ rõ ràng, không có nội hàm xác định, càng không được hiểu như nhau trong mọi văn cảnh. Nếu coi là một khái niệm triết học, thì triết học Châu Á còn mơ hồ hơn cả khái niệm triết học phương Đông...
  • Tản mạn triết học

    30/03/2016Triết học hay là những triết lí trong cuộc sống. Người ta thường nói ai trong chúng ta cũng đều phải đối diện với những vấn đềtrong cuộc sống va người thành công là người có triết lí sống thích hợp. Thế nhưng thế nào là triết lí sống thích hợp?
  • Đưa vào triết học (phần 2)

    08/01/2016Nguyễn Văn TrungTrong lớp triết, chỉ tìm hiểu với một thái độ như thái độ ở lớp khoa học, không thể thực sự hiểu được triết lý. Chỉ có thể hiểu được triết lý từ thái độ sống đó mà thôi...
  • Tiến tới một triết học về hợp tác vì sự giải phóng con người

    22/09/2015Nguyễn Trần BạtVượt thời gian là một khả năng tuyệt vời của nhận thức. Khả năng vượt thời gian cho phép người ta có thể truy đuổi, suy ngẫm về tương lai, hay ít nhất là chuẩn bị tiền đề tâm lý để đi đến với nó. Và ngay cả những người hôm nay đã tìm ra công nghệ để đi đến tương lai nếu trong quá trình tiến đến tương lai tiếp theo, tương lai cấp hai, vẫn khư khư giữ lấy bản đồ án của tương lai thứ nhất thì cũng sẽ trở thành kẻ bảo thủ trong giai đoạn thứ hai này. Cơ sở của công nghệ đi đến tương lai là tư duy không ngừng, lựa chọn không ngừng và loại bỏ không ngừng...
  • “Trà dư tửu hậu” và triết học

    05/05/2015Võ Trần Bình PhươngQuanh năm quay cuồng với chuyện làm ăn, bàn chuyện kinh tế, chính trị, thời sự; cuối năm có lẽ là dịp để mỗi chúng ta chiêm nghiệm, suy ngẫm về cuộc đời... Thử một lần không bàn về chuyện kinh tế, TBKTSG đã “trà dư tửu hậu” với nhà nghiên cứu triết học phương Tây Bùi Văn Nam Sơn...
  • Giới thiệu sách “Câu chuyện triết học”

    10/11/2010Như LêNói đến triết học, nhiều người thường tỏ ra e ngại, có cái gì đó như nặng nề - phải nhăn trán suy tư; hoặc nói đến những người râu tóc dài, những thư viện lớn và những cuỗn sách dày cộm… Thế nhưng, có những cuốn sách triết học lại làm người đọc phấn chấn tạo cảm giác gần gũi, như đọc tác phẩm văn học hay sách giải trí vậy...
  • Liệu triết học có phải là khoa học không?

    28/04/2010“Có thực triết học là khoa học không?” gắn với sự nghi ngờ về tính chất của ngành này là một câu hỏi khoa học chân chính, một câu hỏi triết học đối với chúng ta. Triết gia và những người quan tâm đến triết học cần phải nhìn lại, nhận thức đúng về ngành Triết học để soi lại mình và định hướng để cho triết học phát triển tiếp.
  • Vai trò định hướng của triết học trong nhận thức và giải quyết trong những vấn đề toàn cầu ở thời đại hiện nay

    01/11/2006Đặng Hữu Toàn...giờđây, khi nhânloại đã thực sựbước vàokỷ nguyên mới- kỷ nguyên toàncầu, nhiều vấnđề trongsong vẫn tiếp tục phát triển với mứcđộ ngày càng gay gắt hơn. Trongbối cảnhđó, vai trò định hướngcủa triếthọc đối với sự nhận thức và giải quyết những vấnđề toàn cầu của thời đại càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Triết học với các chức năng vốncó chuẩn mực, phê phán, định hướng, tiên đoánkhoa học và tổng hợp tri thức không chỉđem lại cách tiếp cận phứchợp, liên ngành trong việc nhận thứcbản chất,xu hướng vậnđộng và phát triển của những vấnđề toàncầu,
  • Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới khách quan

    27/10/2006Vũ Gia HiềnĐể tồn tại, loài người phải thích nghi với môi trường sống của mình, nhưng con người không thích nghi với thế giới bên ngoài một cách thụ động, mà luôn luôn tìm cách biến đổi thế giới đó theo những yêu cẩu cuộc sống của mình. Muốn vậy, con người phải hiểu thế giới xung quanh cũng như về chính bản thân con người. Thế giới quanh ta là gì?
  • Bàn thêm về vấn đề cơ bản của triết học

    07/10/2006Vũ TìnhGiải quyết vấnđề cơ bản của triết họclà một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu của việc tìm hiểu triết học nói chung và tìm hiểu một học thuyết triết học nào đó nói riêng...
  • Khoa học hiện đại và triết học

    24/09/2006Nguyễn Văn DũngThế giới ngày nay hiện ra như một tấm thảm rộng mênh mông làm bằng nhiều mảnh bị tung toé ra, không sao ghép lại một cáchkhoa họcđược,- điều không giốngnhư người ta nghĩ trước đây. Đầu thế kỷ chúng ta, khoa học đi chậm lại vì đường đi trước mắt không còn tỏ tường. Triết học đã làmcho con đường đó sáng lên. Khoa học đã nhìn thấy gốc của mình ở siêu hình học và từ đó nó vươn vai đứng lên mạnh mẽ như ngày hôm nay...
  • Về vai trò của triết học trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay

    31/08/2006GS. TS. Nguyễn Trọng ChuẩnTrong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay, cái giúpcho con người vượt qua nhữngkhó khăn, thử thách, giải thoátcon người khỏi những tháchđố và vướng mắc củacuộc sống, đáp ứngnhu cầu thường nhật vàlâu dàicủa nhân loại không chỉ là kinh tế,kỹ thuật hiện đại vàcông nghệcao, mà còn là triếthọc. Triếthọc giúpcho con người tìm ra lời giải không chỉ cho những tháchđố muôn thuở, màcòn cho những vấnđề hoàn toàn mớido quá trình toàn cầu hoá đặt ra...
  • Một hành trình triết học hấp dẫn

    16/07/2006Nguyên NgọcVấn đề của F. Jullien có thể tóm gọn thế này: ông muốn suynghĩ lại về tư duy phương Tây. Làm thế nào để có thể suy nghĩ lại về nền triết học đã có mấy nghìn năm lịch sử vĩ đại ấy? Chỉ có một cách: phải đi ra bên ngoài nó, suy nghĩ về nó từ một cái bên ngoài...
  • “Mềm hóa” triết học

    13/07/2006N.LCông ty Văn hóa & truyền thông Nhã Nam cùng Nxb Văn học vừa cho ra mắt bộ sách Danh tác triết học,gồm một số tác phẩm của Nietzsche, Schopenhaue... nhưng thay vì những tuyển tập dày cộp, lại là những cuốn mỏng, bìa mềm, dễ đọc, dễ biểu vớivăn phong lưu loát, chỉn chu. Thể thao & Văn hóatrao đổi với ông Nguyễn Nhật Anh (Giám đốc Công ty)...
  • Bertrand Russell và tư duy triết học

    06/05/2006Albert EinsteinTiểu luận dưới đây được Einstein viết cho lời tựa tập 5 của tuyển tập "Library of Living Philosophers" do Giáo sư A. Schilpp chủ biên, xuất bản lần đầu năm 1946, đề cập riêng về triết học Bertrand Russell, đặc biệt là tác phẩm "An Inquiry into Meaning and Truth" xuất bản năm 1940...
  • Về vai trò của triết học trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta

    05/05/2006PTS. Phạm Văn ĐứcCũng như mọi lí luận, triết học không chỉ làm nhiệm vụ lý giải những vấn đề của thế giới nói chung và của xã hội loài người nói riêng, mà còn trên cơ sở của sự lí giải ấy, nó trở thành cái định hướng đúng đắn cho con người trong hành động...
  • Tìm hiểu những yếu tố triết học (hay triết lý dân gian) trong tục ngữ Việt Nam

    24/03/2006Vũ HùngTục ngữ và triết học là hai lĩnh vực, hai hiện tượng ý thức xã hội khác nhau. Tục ngữ thuộc lĩnh vực nghệ thuật, là một thể loại folklore, còn triết học thuộc lĩnh vực khoa học, là khoa học về thế giới quan và phương pháp luận. Tri thức của tục ngữ là tri thức dân gian, được rút ra trên cơ sở quan sát và miêu tả cái cụ thể, đó là những tri thức kinh nghiệm, những "lẽ phải thông thường"...
  • Triết học phương Tây hiện đại đi về đâu?

    04/03/2006Bửu Ý...triết học khó lòng chiếm một chỗ nhỏ bé trong hoạt động tri thức của con người thời đại. Nó còn được nhắc nhở phần nào chăng qua các phương tiện truyền thông, hay tối thiểu còn có cơ may thu mình lại trên vài trang sách?
  • Đưa vào triết học (phần 3)

    01/03/2006Nguyễn Văn TrungNgười ta thường có thiên kiến cho triết học hay siêu hình học là một môn học không những trừu tượng, khó hiểu mà còn vô ích, vô bổ vì không đi tới đâu. Các triết gia cãi nhau về những vấn đề trong bao nhiêu thế kỷ mà vẫn không đi đến những giải đáp, những kết quả bền vững.
  • Triết học học đường

    07/02/2006Đỗ Anh ThơĐề cập tới hai chữ “triết học”, các em học sinh sinh viên đều có một cách nhìn giống nhau, cho rằng đây là một môn học khô khan, trừu tượng , khó hiểu. Do đó phần lớn thời gian khi ngồi trên ghế nhà trường các em đều học một cách đối phó, bị động, học thuộc lòng, không hề có chút nào động não...
  • Đưa vào triết học

    22/12/2005Nguyễn Văn TrungTrước khi học một môn gì tôi hỏi: Môn đó là gì? Chẳng hạn Vật lý học là gì? Vậy trước khi học triết lý, tôi cũng hỏi triết lý là gì? Và tôi coi việc hỏi như vậy là sẽ tự nhiên đã hẳn là thế, chẳng khác gì tôi hỏi về một vật gì, một việc gì chẳng hạn, cái bàn là gì?
  • Triết học và cuộc sống

    07/09/2005Lê ThiTrước đây, C.Mác đã nói: "Vũ khí vật chất của triết học là giai cấp vô sản cũng giống như vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản là triết học" (1). Vấn đề đặt ra cho chúng ta ngày nay là làm sao cho triết học Mác - Lênin thật sự trở thành vũ khí tinh thần của nhân dân...
  • Về chức năng dự báo triết học

    24/08/2005Nguyễn Tiến DũngSự đối chiếu lịch sử triết học với lịch sử khoa học tự nhiên cho phép khắng định rằng triết học có những khả năng dự báo trong nghiên cứu khoa học bởi vì nó có thể đưa ra trước những cấu trúc phạm trù sẽ là cần thiết cho sự phát triển không ngừng của khoa học...
  • xem toàn bộ