Hoạt động khoa học xã hội ở đại học

06:13 CH @ Thứ Ba - 25 Tháng Giêng, 2011

Hoạt động nghiên cứu khoa học, nhất là khoa học xã hội (KHXH), chính là một điểm yếu của giáo dục đại học Việt Nam. Làm thế nào để góp phần hạn chế điểm yếu này? Để tránh việc lặp lại những kiến nghị mang tính chất chung chung, tôi xin nêu ra đây một vài biện pháp cụ thể:

1. Xác định lại quan niệm và yêu cầu về giảng viên đại học: Giảng viên đại học đồng thời là nhà nghiên cứu

Giáo viên đại học không chỉ dừng lại ở việc soạn các bài giảng. Họ là những người tổ chức, tham gia vào các hội thảo nghiên cứu khoa học, là tác giả của các bài báo, các công trình nghiên cứu khoa học. Thực tế cho thấy, nếu đại học Việt Nam bị coi là phổ thông cấp 4 thì nguyên nhân là ở chỗ nó chưa thực sự trở thành môi trường nghiên cứu. Số người làm nghiên cứu có, nhưng không nhiều. Vậy, để nâng cấp đại học, trước hết phải nâng cấp vai trò của giảng viên đại học. Các giảng viên tương lai để được tuyển chọn cần có phẩm chất của nhà nghiên cứu, và thực tế công việc phải đòi hỏi họ trở thành nhà nghiên cứu. Các thế hệ sinh viên Việt Nam không thiếu những người có phẩm chất này. Vấn đề là cần có chính sách tuyển chọn và sử dụng người hợp lý.

2. Để giảng viên đại học có thể dễ dàng đảm nhiệm vai trò nghiên cứu của mình, về mặt phương pháp và quy định cơ cấu chương trình giảng dạy cũng cần có sự thay đổi

2.1. Ngoài việc thực hiện chương trình khung do Bộ Giáo dục nghiên cứu và áp dụng ở các trường đại học, giảng viên cần có một sự độc lập nhất định trong việc chọn nội dung chương trình để giảng, một sự độc lập giúp họ có thể công bố các nghiên cứu mới của họ cho sinh viên.

2.2. Đặc biệt đối với đào tạo sau đại học, từ thạc sĩ trở lên, hằng năm giảng viên cần đưa ra một chuyên đề mới. Nếu không thực hiện được hằng năm thì cũng phải thay đổi sau một thời hạn nhất định, tối đa là ba năm. Vì việc dạy đi dạy lại một chuyên đề trong nhiều năm liền sẽ không kích thích khả năng sáng tạo và thay đổi trong nghiên cứu của giảng viên.

Ở Pháp, ngay ở cấp Licence, tức là cấp thấp nhất của đào tạo đại học, chủ đề và nội dung của các bài giảng cũng được giáo viên thay đổi. Còn tại Paris 7, nơi tôi từng theo học có những giảng viên không bao giờ lặp lại bài giảng của họ, năm nào họ cũng đưa ra một vấn đề mới để giảng cho sinh viên. Vì mục đích của giáo dục đại học không phải là trang bị kiến thức.

Ở phương Tây, ta có thể dễ dàng mua những cuốn sách với nhan đề như: “Bài giảng của năm….” Một ví dụ đã trở nên điển hình: “Giáo trình ngôn ngữ học đại cương” của Ferdinand de Saussure thực chất chính là nội dung của các bài giảng của Saussure do học trò ông ghi lại. Cuốn “Herméneutique du sujet” của Michel Foucault cũng là những bài giảng của ông ấy vào năm 1982 được học trò xuất bản từ vở ghi. Hiện nay một số giảng viên ở Pháp có thói quen là sau một năm học, họ hoàn thiện và cho xuất bản luôn bài giảng mà họ đã giảng cho sinh viên, và năm sau lại bắt đầu một bài giảng mới. Như vậy, bài giảng thực chất là một công trình nghiên cứu. Và đấy chính là điều kiện để cho đại học trở thành môi trường nghiên cứu.

2.3. Trước mắt nếu tính tự nguyện ở các giảng viên trong việc nghiên cứu chưa cao, cần có những quy định mang tính bắt buộc của ngành, ví dụ quy định mỗi năm phải công bố bao nhiêu kết quả nghiên cứu, ở những mức độ nào. Nhiều khi sự bắt buộc cũng là động lực thúc đẩy sự phát triển. Giai đoạn bắt buộc sẽ kết thúc khi mà giáo dục đại học đạt tới một chất lượng nhất định, lúc mà các giảng viên đã tự bắt buộc chính họ dưới hình thức gọi là tự nguyện, lúc mà họ thấy việc nghiên cứu là nhu cầu của chính họ, nhu cầu phát triển của chuyên ngành mà họ đảm nhận, cũng như nhu cầu thể hiện và khẳng định năng lực, khẳng định giá trị của họ.

Giảng viên ở Pháp có thói quen là sau một năm học, họ hoàn thiện và cho xuất bản luôn bài giảng mà họ đã giảng cho sinh viên, và năm sau lại bắt đầu một bài giảng mới. Như vậy, bài giảng thực chất là một công trình nghiên cứu. Và đấy chính là điều kiện để cho đại học trở thành môi trường nghiên cứu.

Tuy nhiên, chính sách bắt buộc chỉ có thể thực thi trong trường hợp giảng viên đại học được trả lương xứng đáng với lao động của họ, hoặc ít nhất họ có thể đủ sống bằng công việc chính của họ mà không phải mất thời gian mưu sinh bằng những việc khác không liên quan đến chuyên môn.

3. Công khai hoá việc sử dụng ngân sách của Nhà nước cho nghiên cứu khoa học cấp cho ngành giáo dục

Một số điều cụ thể:

3.1. Công bố ngân sách Nhà nước dành cho nghiên cứu khoa học của ngành giáo dục trên website của Bộ Giáo dục để tất cả cán bộ đều được biết và có thể nộp hồ sơ tham gia.

3.2. Công bố các điều kiện và yêu cầu, cũng như các ngành khoa học cụ thể được Nhà nước đầu tư trong nghiên cứu khoa học.

3.3 Công bố danh sách thành viên của các hội đồng xét duyệt và thẩm định các công trình nghiên cứu.

3.4 Chi tiết hoá kinh phí và cập nhật tại mỗi thời điểm có sự thay đổi, và công bố công khai trên mạng: đã chi bao nhiêu; cho những công trình gì, do ai phụ trách, do hội đồng nào xét duyệt; còn lại bao nhiêu…

3.5. Công bố danh sách các công trình nhận được tài trợ của Chính phủ.

3.6. Phổ biến các công trình đã nghiệm thu trên website của Bộ, để chất lượng của chúng có thể được đánh giá một cách công khai.

4. Tạo cơ hội cho cán bộ trẻ tham gia vào các hoạt động nghiên cứu

- Cán bộ trẻ, đặc biệt là sinh viên vừa tốt nghiệp được giữ lại trường thường không được giao nhiều công việc, vì họ chưa có nhiều kinh nghiệm. Cho phép họ tổ chức cho sinh viên các buổi thảo luận về các vấn đề mà họ đã được học. Hoặc hướng dẫn sinh viên cách đọc một văn bản, cách viết thu hoạch, cách tóm tắt các sách khảo cứu. Việc chữa các lỗi tiếng Việt và ngữ pháp, hướng dẫn cách viết, cách đọc cho sinh viên, các giáo sư không có thời gian để làm, có thể giao việc đó cho các nghiên cứu sinh hoặc các cán bộ trẻ. Ở Pháp có một chế độ gọi là monitorat, dành cho các nghiên cứu sinh, công việc của moniteur tại các Khoa KHXH là tổ chức các hoạt động đọc và viết cho sinh viên, chữa bài cho họ. Sinh viên Pháp viết sai tiếng Pháp không phải là chuyện hiếm, gặp khó khăn khi viết một báo cáo cũng không phải là hiếm. Chế độ monirtorat được thiết lập để giúp sinh viên khắc phục nhược điểm này. Đấy đồng thời cũng là một hình thức giúp cán bộ trẻ quen dần với việc nghiên cứu.

- Cán bộ trẻ cũng có thể tổ chức các cuộc hội thảo, hoặc các nhóm nghiên cứu tuỳ theo lĩnh vực và sự quan tâm của họ.

- Các cán bộ trẻ cũng cần nhận được sự đầu tư của Nhà nước nếu họ có những dự án có chất lượng và nếu họ chứng minh được khả năng thực hiện dự án đó.

5. Đưa Lịch sử triết học thế giới thành một bộ môn của các ngành KHXH

Tại sao có đề xuất này?

Hoạt động nghiên cứu KHXH đòi hỏi kiểu tư duy trừu tượng. Và tư duy trừu tượng vốn không phải là điểm mạnh của người Việt Nam. Tuy nhiên các công trình của triết gia Trần Đức Thảo cho thấy rằng người Việt Nam không phải không có khả năng tư duy trừu tượng. Nhưng chúng ta chưa tạo môi trường cho kiểu tư duy này phát triển. Việc giảng dạy môn triết học, giảng dạy các khái niệm và vấn đề triết học cho các ngành KHXH chính là một cách tạo điều kiện cho việc góp phần xây dựng kiểu tư duy này. Không thể có hoạt động nghiên cứu nếu không có những con người có phẩm chất nghiên cứu. Và sẽ không có những người có phẩm chất nghiên cứu nếu không đào tạo họ.

Triết học sẽ nuôi dưỡng sự quan tâm đặc biệt đối với các giá trị tinh thần, giúp con người hiểu rõ chính mình trong những chiều kích khác nhau, từ những vấn đề cụ thể trong đời sống hằng ngày của chính họ: sự sống, cái chết, cái tôi, tha nhân, tâm hồn, cơ thể, hạnh phúc, đạo đức, chính trị v.v…cũng như những tầm cao mà họ có thể đạt tới trong tư duy.

5.1. Triết học là một môn thi tốt nghiệp phổ thông bắt buộc ở Pháp. Ở các nước phát triển khác, lịch sử triết học và phương pháp luận khoa học (epistemologie) được giảng dạy ở đại học cả trong khoa học tự nhiên và KHXH. Đó không những là nền tảng kiến thức quan trọng của nhân loại mà còn là bộ môn giúp xây dựng khả năng phát triển tư duy trừu tượng. Vượt qua mọi tính chất cụ thể của các bộ môn khoa học cụ thể, nó là khoa học của mọi khoa học, là thành tựu đặc thù của tư duy nhân loại. Triết học thể hiện đầy đủ năng lực tư duy trừu tượng của con người. Trong thời đại toàn cầu hoá hiện nay, con người Việt Nam không thể không biết những gì mà nhân loại đã trải qua trên con đường tư duy về cuộc sống, về nhân sinh, về vũ trụ, về quan hệ giữa con người với bản thân mình, quan hệ giữa con người với đồng loại, quan hệ giữa con người với thế giới…

Trong KHXH nói riêng, như đã nói, thiếu tư duy trừu tượng sẽ dẫn đến sự thiếu vắng các nghiên cứu và các lý luận mang tính hệ thống. Do vậy, điều mà bộ môn lịch sử triết học có thể mang lại không chỉ là các kiến thức tổng hợp, mà còn là sự giới thiệu và gợi mở về các hình thái tư duy phức tạp. Nó sẽ góp phần, về lâu dài, xoá bỏ tình trạng thiếu vắng các nhà lý luận, các nhà nghiên cứu và các nhà tư tưởng. Nó cũng sẽ góp phần ngăn chặn tình trạng băng hoại các giá trị tinh thần. Vì triết học sẽ nuôi dưỡng sự quan tâm đặc biệt đối với các giá trị tinh thần, giúp con người hiểu rõ chính mình trong những chiều kích khác nhau, từ những vấn đề cụ thể trong đời sống hằng ngày của chính họ: sự sống, cái chết, cái tôi, tha nhân, tâm hồn, cơ thể, hạnh phúc, đạo đức, chính trị v.v…cũng như những tầm cao mà họ có thể đạt tới trong tư duy.

5.2. Việc giảng dạy cụ thể bộ môn này ở từng ngành KHXH khác nhau, có thể cần có những trọng tâm khác nhau. Trọng tâm chương trình áp dụng cho sinh viên khoa văn sẽ có sự khác biệt so với khoa sử, khoa ngôn ngữ, văn hoá... Điểm khác biệt chủ yếu sẽ nằm ở sự lựa chọn các tác giả, tác phẩm và trích đoạn tác phẩm được đưa vào phân tích cho sinh viên, và ở cách khai thác các tác phẩm, trích đoạn ấy.

Làm thế nào để có các tác phẩm triết học thế giới để dạy cho sinh viên?

Thực tế đó là một vấn đề nan giải. Vì rõ ràng chỉ có thể dạy cho sinh viên dựa trên những bản dịch tiếng Việt. Chúng ta có quá ít các bản dịch. Trong khi những triết gia đương đại như Derrida đã trở thành phổ biến ở Trung Quốc thì có những tác giả cổ điển vẫn chưa hề được dịch ở Việt Nam. Như vậy chúng ta đã lạc hậu quá nhiều so với Trung Quốc.

Hiện nay ở Việt Nam có những dịch giả tâm huyết và đủ năng lực để chuyển dịch những tác phẩm thuộc lĩnh vực rất khó dịch này. Một chính sách thoả đáng của Chính phủ để sử dụng năng lực của họ cho một chiến lược tuyển chọn dịch và giới thiệu một cách có hệ thống các tác giả kinh điển của triết học thế giới sẽ thúc đẩy quá trình đi nhanh hơn. Đồng thời tận dụng được tối đa tài nguyên chất xám mà chúng ta đang có.

Tất cả những điều nói trên cho thấy chỉ khi Chính phủ thực hiện một chính sách mang tầm chiến lược thì mới có thể thực sự phát triển nghiên cứu ở đại học, đặc biệt là những nghiên cứu về KHXH, vốn đòi hỏi sự đầu tư rất nhiều về thời gian. Và tầm quan trọng của việc phát triển KHXH là ở chỗ: nó đóng vai trò cốt yếu trong việc bảo vệ, xây dựng và phát triển các giá trị nhân văn, các giá trị tinh thần, các giá trị đạo đức. Khoa học xã hội cung cấp hiểu biết về xã hội (Việt Nam và thế giới) để dựa trên đó, nhà cầm quyền có thể xây dựng và chọn lựa chính sách. Nếu không có KHXH thực sự, thì các “nhà KHXH” chỉ đóng vai trò “minh họa” hay biện minh cho một chính sách không căn cứ vào thực tế xã hội, đến khi chính sách này bị cuộc sống đào thải, thì lại “minh họa” cho một chính sách khác. Trước những ảnh hưởng nhanh chóng và ồ ạt của các yếu tố đến từ nước ngoài trong điều kiện hội nhập hiện nay, nếu KHXH của ta không đủ mạnh, và không áp dụng được các kết quả nghiên cứu vào đời sống, thì việc không bảo vệ được bản sắc dân tộc là điều có thể nhìn thấy. Cùng với sự suy vi của bản sắc dân tộc sẽ là sự băng hoại các giá trị đạo đức, các giá trị tinh thần, các giá trị nhân bản.

Nguồn:Tia Sáng
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Hướng đi của đại học

    13/02/2013Cao Huy ThuầnTôi không biết rõ đại học Việt Nam đang đi thế nào và sẽ đến đâu, nhưng tôi biết đại học ở bên ngoài, trên thế giới, đang đi làm sao, đang biến chuyển thế nào, và tôi cũng biết: với thời đại của toàn cầu hóa, những biến chuyển đó sẽ lan rộng ra đến ta, đại học Việt Nam sẽ không tránh khỏi ảnh hưởng. Vậy nói chuyện bên ngoài cũng là nói chuyện của ta, tranh luận bên ngoài sẽ giúp ta thấy rõ vấn đề hơn để tự mình tìm hướng đi cho chính mình.
  • Đổi mới việc dạy triết học trong nhà trường đại học ở nước ta hiện nay

    29/12/2010Nguyễn Trọng ChuẩnBàn về việc giảng dạy triết học cho các đối tượng khác nhau trong một quốc gia là chủ đề rất lớn. Tôi xin đề cập đến một phạm vi hẹp hơn là việc dạy triết học trong nhà trường đại học vì trong đó người học là đối tượng trẻ và đông đảo vừa mới bước chân vào cổng trường đại học đang rất háo hức tìm hiểu, khám phá kho tàng tri thức đồ sộ của nhân loại...
  • Đại học hay học đại?

    15/06/2010Nguyễn Lân DũngThành tích xây dựng hệ thống các trường đại học cao đẳng ở nước ta là rất lớn. Nhưng về chất lượng đào tạo thì quả thật là có quá nhiều vấn đề cần bàn.
  • Khoa học xã hội với sự nghiệp phát triển đất nước

    05/04/2010Duy MếnKhoa học xã hội, ngành khoa học có 3 chức năng chính là nghiên cứu khoa học, đào tạo và tư vấn chính sách. Vậy, khoa học xã hội có vai trò như thế nào trong đời sống xã hội? Và trong những năm qua khoa học xã hội Việt Nam đã có đóng góp như thế nào đến sự phát triển của đất nước?
  • Trách nhiệm xã hội của đại học

    12/11/2009Cao Huy ThuầnĐồng thời với chúng tôi hồi đó, tại mẫu quốc, các cậu bé của nước Đệ Tam Cộng Hòa Pháp được dạy để làm công dân dưới mái trường mà mỗi giáo viên tiểu học là một người lính tiền phong chống lại giáo dục của Nhà Thờ ngự trị qua bao thế kỷ.
  • Cảm hứng triết luận trong khoa học xã hội và nhân văn hiện đại

    26/02/2009Hoàng Ngọc HiếnTừ cuối thế kỉ XIX, khoa học xã hội trở thành hiện đại, ngày càng chuyên nghiệp hoá, chuyên môn hoá, quá trình này là tất yếu để đáp ứng sự nghiên cứu xã hội hiện đại trở nên ngày càng phức tạp. Trong thế kỉ XX, KHXH hiện đại có những đóng góp to lớn về định tính cũng như định lượng, tầm vi mô cũng như vĩ mô, tuy nhiên ở không ít nhà KHXH hiện đại bộc lộ những nhược điểm...
  • Khoa học xã hội và nhân văn với sự nghiệp đổi mới

    08/06/2007Nguyễn Duy QuýKhoa học xã hội và nhân văn có nhiệm vụ nghiên cứu các quy luật hình thành và phát triển của xã hội và con người, của mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Vì vậy, khoa học xã hội và nhân văn ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội của mỗi quốc gia.
  • Hiện trạng khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta

    31/08/2006Trần Ngọc VươngTrên cơ sở mô tả tổng trạng và dựa vào những mốc lớn của lịch sử trong một thế kỷ vừa qua, tuy không quên ghi nhận những thành tựu mà đội ngũ những người lao động trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta đã đạt được, bài viết được xây dựng chủ yếu trên cảm hứng phê phán và tự phê phán, tự xác định mục tiêu chủ yếu là chỉ ra một số phương diện yếu kém, bất cập từ trong lịch sử và cả ở hiện trạng của lĩnh vực lao động mà tác giả là một người trong cuộc...
  • Bill Gates nói về Học đại học

    07/07/2005Phó Thiên TùngBuổi đến thăm và tâm sự của Bill Gates với học sinh trung học Trung Quốc, 1/7/2004. Hơn 2000 học sinh trung học thực nghiệm thuộc trường đại học sư phạm Bắc Kinh đã dành cho thần tượng của mình những tràng vỗ tay nhiệt liệt nhất...
  • Trường Đại học duy lý và ý tưởng tự trị Đại học

    19/02/2006Ngô Tự Lậpcha đẻ thực thụ của trường Đại học hiện đại chính là Immanuel Kant (1724 -1804), người đã kết hợp triết học duy lý (rationalism) của Descartes với triết học duy nghiệm (empiricism) của Bacon và mở đầu cho thời kỳ Khai Sáng...
  • Đại học để... làm gì?

    18/12/2005Nhà văn Nguyên NgọcCâu hỏi nghe có thể thật vớ vẩn. Còn để làm gì nữa, ai mà chẳng biết: để đào tạo ra những người có đủ kiến thức, năng lực đáp ứng những yêu cầu ở một cấp nào đó, mà ta thường gọi là cấp cao, của xã hội (đại học hiểu theo nghĩa bao gồm cả cái mà ở ta thường gọi là “trên đại học”). Đúng rồi. Nhưng có phải chỉ có chừng ấy?
  • Giáo dục đại học Việt Nam: Một vài con số

    21/10/2005LTS. Nhà báo Lê Hạnh, trên Lao Động số ra ngày 23.06.2004, đã ghi nhận từ hội thảo quốc tế " Đổi mới giáo dục đại học và hội nhập quốc tế ", tổ chức trong hai ngày 22 – 23.6.2004 tại Hà Nội, một vài thông tin so sánh đại học Việt Nam và thế giới. Chúng tôi xin trích đăng dưới đây một số đoạn của bài báo – dù biết rằng các so sánh thường khó tránh khỏi phần khập khiễng !
  • Cần một phương pháp học ở đại học

    31/08/2005Nguyễn PhanĐã nộp xong luận văn và chỉ hơn một tuần sau sẽ bảo vệ tốt nghiệp tại khoa xây dựng (ĐH Bách khoa, ĐHQG TP.HCM), nhưng SV Đ.H.T. (khóa 99) đã đột ngột ra đi. Kết luận sau khi giám định pháp y cho thấy SV T. đã chết vì nhồi máu cơ tim. Hậu quả tất yếu của việc học căng thẳng và không khoa học. “Bình thường T. học đến 3g30 sáng và hôm sau ngủ bù đến khi ăn cơm trưa.
  • Giáo dục đại học: Khơi dậy và nuôi dưỡng tính ham học

    12/07/2005Nguyễn Văn Tuấn, Viện Nghiên cứu Y khoa Garvan, Sydney, AustraliaGần đây, nhân dịp được tham dự vài buổi giảng tại một trường đại học trong nước (theo lời mời của vài đồng nghiệp), tôi chợt nhớ đến kinh nghiệm của chính mình trong thời còn theo học đại học hơn 30 năm trước đây. Thời đó, mối quan hệ giữa người giáo sư và sinh viên chủ yếu là “thầy giảng trò chép”. Ở các trường đại học Tây phương từ hơn 50 năm trước giới nghiên cứu giáo dục đã chứng minh rằng một phương pháp giảng dạy như thế không đem lại hiệu quả cao cho người học, vì nó mang tính thụ động quá. Ngày nay, qua trao đổi với một số đồng nghiệp trong nước và trực tiếp tham dự nghe giảng, tôi cảm thấy mối quan hệ thụ động như thế vẫn còn tồn tại. Có lẽ đã đến lúc chúng ta nên thay đổi cách giảng dạy để đem lại hiệu quả tốt cho sinh viên và cả người dạy.
  • Những điều không dạy ở trường đại học

    27/01/2004Biết rằng nhân sự là khâu then chốt trong sự thành bại và tăng trường của bất kỳ doanh nghiệp nào, nhất là những doanh nghiệp "chưa lớn", tôi vẫn thấy bất ngờ với nhiều ứng viên 

    Sự nhạy cảm về tính phù hợp có thể vẫn chưa được chú trọng ở cả hai phía: người tuyển dụng và ứng viên. Câu hỏi bây giờ là làm sao đây để người ta chú trọng hơn về tính phù hợp (competency). Đặc biệt đối với những công ty nhỏ và vừa, đang phát triển tính phù hợp cần được cân nhắc xen kẽ với tính linh động (flexibility) trong xử lý công việc...
  • Gióng hồi chuông về phương pháp học đại học

    13/01/2004Nguyễn PhanĐã nộp xong luận văn và chỉ hơn một tuần sau sẽ bảo vệ tốt nghiệp tại khoa xây dựng (ĐH Bách khoa, ĐHQG TP.HCM), nhưng SV Đàm Hữu Thu (khóa 99) đã đột ngột ra đi. Kết luận sau khi giám định pháp y cho thấy SV Thu đã chết vì nhồi máu cơ tim. Hậu quả tất yếu của việc học căng thẳng và không khoa học. “Bình thường Thu học đến 3g30 sáng và hôm sau ngủ bù đến khi ăn cơm trưa...
  • Nghiên cứu khoa học bị 'bỏ quên' trong các trường đại học

    06/09/2003Đại học là một trong những nơi tập trung nhiều chất xám nhất, song việc đầu tư cho khoa học ở đây đang bị xem nhẹ. Kinh phí cho nghiên cứu ở các trường chỉ bằng 1/3 so với các viện, thiết bị lạc hậu Còn giảng viên thì ngày càng “chán” đề tài, dẫn đến kiến thức chai cứng, không được cập nhật...
  • Minh triết đại học đến từ đâu?

    28/05/2003Đã từ lâu, bất cứ ai quan tâm đến nền giáo dục đại học đều nhận thấy rằng lối giảng dạy như hiện nay không thể nào kích thích được năng lực tư duy độc lập, phát triển óc phê phán, biết hoài nghi khoa học, biết và dám không phục tùng ngụy lý, biết và dám phê phán cái lạc hậu, cái sai lầm nơi người học Tức là lối giảng dạy đó không thể mang lại sự "minh triết” cần phải có của một nền giáo dục đại học "chính danh". Tại sao lại như thế vậy, cái gốc của tình trạng này hệ tại ở đâu?
  • xem toàn bộ