Những vấn đề con người và tu dưỡng trong Phật giáo

09:48 CH @ Thứ Sáu - 12 Tháng Năm, 2006

Đạo Phật không thừa nhận quan điểm thần quyền của kinh Veda, không quy phục sự bất bình đẳng tôn giáo trong đạo Balamôn. Thời đó, đạo Phật xuất hiện như một hệ tư tưởng tiến bộ, vô thần, bảo vệ quyền bình đẳng của con người trong xã hội đẳng cấp tôn giáo.

Đạo Phật là triết lý về con người hướng nội. Đạo Phật quan niệm đời người là bể khổ, song đó là cái khổ nội tâm của cá nhân riêng lẻ. Điểm mạnh nhất của triết lý này là con người nội tâm, vô thần, bình đẳng về đạo đức. Triết lý nhân sinh của đạo Phật cũng bộc lộ nhiều hạn chế do chính phạm vi và cách tiếp cận hướng nội quy định. Con người của đạo Phật là con người nhẫn nhục, trốn tránh những mâu thuẫn thực tế của xã hội. Con người của đạo Phật mờ nhạt tính xã hội. Đạo Phật không bàn tới nguồn gốc xã hội của nỗi khổ (sự nghèo nàn, áp bức bóc lột, chiến tranh phi nghĩa...). Mô hình lý tưởng của đạo Phật thực sự chưa vượt khỏi một nguyện vọng chủ quan vĩ đại, đậm màu huyền bí.

Nhưng cũng chính cách tiếp cận hướng nội của đạo Phật là chỗ làm cho các triết học hướng ngoại mạnh tự thấy thiếu hoàn chỉnh khi sự khát khao hiểu biết bản thân con người trở thành một nhu cầu có tính triết học. Song cũng chính tại đây, triết học nhân bản là cơ sở lý luận để đạo Phật phát huy thế mạnh tôn giáo của nó.

Đạo Phật lấy trọng tâm là “diệt khổ”, “giải thoát”, mô hình lý tưởng là “Niết bàn” và phương pháp là “diệt dục”.. Giáo lý đạo Phật là chỉnh thể bất phân triết học-tôn giáo về con người. Tất cả các hệ phạm trù nguyên lý thể hiện trong giáo lý đều nhằm một mục đích “diệt khổ”, “giải thoát” con người với tinh thần bác ái, phi bạo lực. Chúng được hệ thống hoá thành “Tứ diệu đế” tức 4 khái quát siêu cao về con người:

1. Khổ đế (Dukkha): Thực tại nhân sinh là khổ, đời là bể khổ và tập hợp các loại khổ của nhân sinh gọi là Bát khổ:

1-2-3-4- Sinh-lão-bệnh-tử khổ (sinh, già, ốm đau, chết)
5- Sở cầu bất đắc khổ: muốn mà không được(nhu cầu con người là vô tận và đó là cái tạo khổ).
6- Oán tăng hội khổ: Ghét nhau phải tụ hợp với nhau
7- Ái biệt ly khổ: yêu thương nhau phải xa nhau
8- Thủ ngũ uẩn khổ: khổ vì có sự tồn tại thân xác

2. Tập đế (Samarudaya): Thập nhị nhân duyên hay là 12 nguyên nhân gây ra khổ.

1- Vô minh: vì không biết thực Ngã, không sáng suốt, không nhận thức được sự vật, hiện tượng. Chính vì thế con người chạy theo ái dục và tạo Nghiệp gồm 2,3,..., 12 và vì vậy rơi vào vòng luân hồi của sinh-lão-bệnh-tử.
2- Duyên hành: hoạt động của ý thức, sự dao động của tâm, của khuynh hướng
3- Duyên thức: Tâm thức từ chỗ trong sáng, cân bằng trở nên ô nh

Bối cảnh đạo Phật ra đời

Đạo Phật (buddhism) là tôn giáo xây dựng trên cơ sở cuộc đời và giáo lý của Thích Ca Mâu Ni được gọi là đức Phật. Đạo Phật xuất hiện khoảng cuối thế kỷ thứ 6 trước CN, ở Bắc Ấn Độ (vùng biên giới Nêpan).Trước đó, Ấn Độ đã có nhiều nguồn tưu tưởng và tôn giáo khác nhau:

- đạo Phệ đà (dựa vào Kinh Vêđa) một thứ tôn giáo tự nhiên thờ nhiều thần

- đạo Bà La Môn thờ một thần (từ thế kỷ thứ 1 đã trở thành Ấn Độ giáo) là hậu thân của đạo Vệđà

- nhiều phái triết học (phái triết học tự nhiên, phái khổ hạnh, phái hành lạc...)

Xã hội Ấn Độ lúc đó đã chia làm 4 đẳng cấp gồm:

- tăng lữ Bà La Môn (giữ quyền cúng tế)
- quý tộc (vua quan)
- người buôn bán và làm thủ công giàu có
- nô lệ và nông nô

Ngoài ra còn có loại tiện dân Paria coi là hạng cùng cực, ô uế nhất xã hội.

Trong hoàn cảnh áp bức giai cấp, đánh dấu sự tan rã của xã hội thị tộc - bộ lạc và sự ra đời của Nhà nước chiếm hữu nô lệ, đạo Phật đã ra đời đem lại những tư tưởng và cải cách tích cực với xã hội (như lòng từ bi, bình đẳng, chống tăng lữ BàLaMôn...).

Khi xuất hiện, Phật học là một triết lý duy tâm có yếu tố vô thần.

Thích ca mâu ni là ai?

Phật (Buddha)còn gọi là Thích ca mâu ni có nghĩa là Người sáng suốt, tự giác ngộ và giác ngộ người khác.

Theo kinh điển đạo Phật có nhiều Phật xuất hiện trong quá khứ, hiện tại và tương lai – nhưng hàng muôn triệu năm mới có một đức Phật ra đời. Thường theo kinh Phật, nói đến Phật là nói đến Thích Ca Mâu Ni (khoảng 563-483 trước CN, ngày mùng 8 tháng 4 âm – ngày Phật đản).

Thích Ca Mâu Nitên thật là Siddharta Gautama là con một ông vua bộ lạc Sakya ở biên giới Ấn Độ-Nêpan. Theo truyền thuyết, năm 7, 8 tuổi theo học những người đạo Balamôn văn chương, võ nghệ đều giỏi. Lớn lên ở nơi quyền quý, giàu sang. Có lần dạo chơi ra ngoài thành, thấy một người ốm nặng, một cụ già, một người chết và một nhà tu hành. Từ đó nảy ra ý định giải thoát đau khổ, bỏ đi tìm đạo. Vua cha tìm mọi cách giữ Thái tử lại, cưới vợ cho con, tổ chức tiệc tùng múa hát, sửa sang cung điện. Năm 29 tuổi, Thái tử vẫn quyết tâm ra đi. Thụ giáo mấy tu sĩ BàLaMôn. nhưng thấy phép tu của họ không hợp, bèn tu khổ hạnh 6 năm bên bờ sông. Kiệt sức mà không đạt kết quả Siddharta Gautama tắm rửa sạch sẽ, xin một bát sữa của một thiếu nữ tiện dân chăn bò. Uống xong, thấy người khoẻ khoắn, sáng suốt.

S. G. đến Buddhagaya ngồi dưới gốc cây pippalo (sau này gọi là cây Bồ đề) nhập tịnh 49 ngày. Đêm cuối cùng thành đạo S. G. trở thànhPhật Thích Ca MâuNi (Phật Tổ, đức Thế Tông, đức Như Lai).

Trong 49 năm ông đi khắp nơi thuyết pháp và tổ chức tăng lữ. Năm 84 tuổi, ông mất ở Kusinagara.


Quá trình hình thành và phổ biến đạo Phật

Đạo Phậttrở thành một tôn giáo sau khi Phật tịch diệt và được truyền bá rộng rãi. Đến thế kỷ thứ 3 trước CN, vua Acoka đã cho xây đến 8 vạn tháp thờ Phật và thúc đẩy việc truyền đạo ra nước ngoài. Từ thế kỷ thứ 5, đạo Phật ở Ấn Độ bắt đầu bị Ấn Độ giáo tấn công; đến thế kỷ thứ 12 bị đạo Hồi làm tàn lụi thêm.


Trong quá trình phát triển, đạo Phật chia ra làm 3 môn phái khác nhau về giáo lý, tổ chức và địa bàn:


1. Phái
Phật giáo nguyên thuỷ (Theravanda)còn gọi là Tiểu thừa(Hinayana - cỗ xe nhỏ) chủ chương tu thân cho bản thân giác ngộ thành “lahán” (arhat). Phái này theo sát chữ nghĩa kinh điển, không thờ cúng thần linh hoặc chỉ thờ Thích Ca Mâu Ni thôi. Đạo này còn phổ biến ở Đông Nam Á (Srilanka, Thái Lan, Miến Điện, Việt Nam, Lào, Campuchia...)


2. Phái
Đại thừa (Mahayana- cỗ xe lớn) chủ trương tự giác và giác ngộ cả chúng sinh, tu thành bồ tát (bodhisattva) trước khi thành Phật. Không cố chấp chữ nghĩa kinh điển - thờ nhiều Phật - phổ biến ở Nepan, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam). Một nhánh của Đại thừa là phái Thiền.


3. Phái
Tantrayana - Mật tônghay Vadshrayana – Kim cang thừa có tính chất bí truyền, kết hợp phù chú, bùa linh để tu giải thoát - phổ biến ở Tây tạng, Mông Cổ, Xibia.


Số tín đồ Phật giáo trên thế giới là hơn 600 triệu người.


Ở Việt Nam, đạo Phật được đưa vào từ thế kỷ thứ 2 qua đường biển từ Ấn Độ và đường bộ từ Trung Quốc - chủ yếu là tư tưởng Thiều tông kết hợp với lối tu của Tịnh độ tông thờ A Di Đà cùng Quan Âm và của Mật tông (nặng về phép thuật)


Tư tưởng chính của đạo Phật

Tư tưởng Phật học được thể hiện trong khối lượng khổng lồ các tài liệu cổ (bộ Đại tạng đã có gần một vạn pho sách kinh điển). Nguyên bản tiếng Pali và tiếng Phạn. Toàn bộ gọi là Tam tạng (Tripitaka – ba cái giỏ).

Ba tạng đó là:
1. Tạng Kinh (Sutra) chép lời Phật dạy


2. Tạng Luật (Vinaya) chép những giới luật, tức là những điều cấm làm


3. Tạng Luận (Abhidharma) gồm những lời bàn luận, giải thích.

Kinh điển Nam tông (màu sắc Tiểu thừa) là một hệ thống rất phong phú và pha trộn hơn. Đạo Phật có chung với các tôn giáo Ấn Độ khác một số khái niệm như Nghiệp, Luân hồi... mà nội dung lại không giống hẳn.

Phật học nguyên là một triết lý sống, triết lý duy tâm có yếu tố vô thần, không thờ cúng, trước khi thành tôn giáo.

Đặc điểm hướng nội của Phật học cũng là một trong những chỗ còn thiếu hụt nhiều của Triết học phương Tây cho đến nhiều thế kỷ sau.

Bản thể luận của Đạo Phật là “Không luận”. Đạo Phật cho rằng thế giới được cấu tạo bởi sự giả hợp của “tứ đại” - địa, thuỷ, hoả, phong. Địa là đất, chất khoáng; thuỷ là nước, chất lỏng; hoả là lửa, nhiệt; phong là gió, không khí. Con người cũng là giả hợp của “ngũ uẩn” tức là sắc/ thân gồm có “tứ đại” (tượng trưng phần sắc- Vật chất) kết hợp với Danh/tâm (hay tinh thần) là những yếu tố tâm thức, chỉ có tên gọi mà không thấy hình (gồm: Thụ (cảm giác), Tưởng (ấn tượng), Hành (tư duy nói chung), Thức (ý thức)).

Đạo Phật cho rằng danh (tinh thần) và sắc (bật chất) đều là những thành tố độc lập và bản thân chúng lại là tổ hợp lại của nhiều thành tố. Đạo Phật đã tuyệt đối hoá tính tương đối của sự vận động và khẳng định bản thể “Không” (Sunyata) tồn tại trong biện chứng “sắc-không”, nghĩa là về hiện tượng thì có tồn tạinhưng đó không phải là bản thể đích thực. Đạo Phật khác với triết học duy tâm phương Tây ở chỗ, không coi ý/thức/danh/tâm là thực thể cuối cùng của vũ trụ mà chỉ là 1 trong 2 thể giả hợp nên vũ trụ. Đạo Phật quan niệm vũ trụ người là giả hợp của sắc, thụ, tưởng, hành, thức theo quy luật nhân-duyên. Nhân sinh và vũ trụ thống nhất với nhau trong tồn tại giả hợp vô thuỷ, vô chung cả về không gian và thời gian.

Con người của đạo Phật là một chỉnh thể vũ trụ chứ không phải là bộ phận của vũ trụ như quan niệm phương Tây.

Đạo Phật giải thích tồn tại người là do sự hợp tan theo luật nhân duyên của Danh và Sắc (tức là tứ đại và ngũ uẩn). Thân do duyên kết hợp với tứ đại; Tâm do Duyên kết hợp với Thụ (vedana - cảm thụ về khổ, lạc), Tưởng (samjna – tư duy), Hành (Samskara – hành động) và Thức (vijina -nhận thức, tâm lý). Duyên hợp thì ngũ uẩn là Ta/Ngã, duyên tan thì ngũ uẩn tan, không còn Ta/Ngã. Nhưng Ngã không mất đi mà trở về ngũ uẩn. Bản thân ngũ uẩn cũng không ngừng biến hoá, hợp tan theo luật nhân duyên, nên con người cũng không ngừng biến đổi, sinh diệt... Sự biến hoá, sinh diệt không ngừng gọi là “vô thường”. Trong sự liên tục biến đổi, tồn tại “thường hằng” của con người là ”vô ngã”, có mà không, không mà có, “sắc sắc-không không”.

Đạo Phật cho rằng con người là một giả hợp “vô thường”, “vô ngã”, do đó không thấy nguồn gốc tự nhiên của con người như phương Tây là sản phẩm cao nhất của quá trình vận động và phát triển của giới tự nhiên, thoái thai từ động vật và về mặt sinh học là động vật bậc cao có ý thức. Chính vì bản thể luận còn hạn chế mà đạoPhật không thể hiểu được con người là một thực thể sinh học-xã hội. Đạo Phật chỉ tập trung lý giải con người tinh thần hướng nội, gần như hoàn toàn không quan tâm tới con người vật chất, con người xã hội, và do đó, tính nhân văn cũng bị hạn chế.

Khổ luận

Đạo Phật cho rằng đời người là “bể khổ”. Căn nguyên của khổ là sự “vô minh” về bản chất của chính mình. Vì nhầm tưởng cái “vô ngã” là đích thực nên đã chạy theo “ái dục”, nẩy sinh khao khát thoả mãn và để thoả mãn ái dục thì phải tạo “nghiệp”. Nghiệp là nguyên nhân để con người sa vào vòng luân hồi của khổ đau. Đạo Phật hệ thống chuỗi nhân duyên gồm 12 vòng khâu khổ biện chứng. Để diệt khổ trước hết phải phá được căn nguyên “vô minh”. Phá được vô minh sẽ tự giác không chạy theo ái dục mà tạo nghiệp. Hết nghiệp, con người thoát được sự chi phối của nhân duyên, thoát khỏi dòng luân hồi đau khổ và đạt tới giải thoát ở cảnh giới “Niết bàn”.

“Khổ” luận của đạo Phật mờ nhạt tính xã hội, giai cấp. Cái khổ của đạo Phật là khổ nằm ngoài thực tiễn lịch sử. Tính xã hội chỉ thể hiện gián tiếp quan các chuẩn mực đạo đức chính-tà, thiện-ác, khổ-lạc. Và các chuẩn mực đó cũng có khuynh hướng bị phủ định nốt khi chúng có cơ trở thành đối tượng của ham muốn. Khổ của đạo Phật là cái khổ nội tâm của tâm lý, sinh lý, tâm linh. Đạo Phật không thấy được sự tha hoá con người trong quan hệ đẳng cấp của xã hội. Khổ của đạo Phật là cái khổ của con người nói chung với sinh-lão-bệnh-tử, chứ không phải là cái khổ của con người trong xã hội thiếu bình đẳng. Đạo Phật chỉ thấy được cái khổ bất biến của con người nói chung mà không thấy được rằng thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi chính bản thân mình.

Vũ trụ luận của đạo Phật không tách rời vũ trụ người về không gian và thời gian. Vũ trụ không ngoài mục đích để lý giải vũ trụ người, chứ không phải để lý giải chính sự phát triển, phát sinh của vụ trụ. Đạo Phật quan niệm vũ trụ gồm nhiều thế giới - nhiều “như cát sông Hằng” và sự “thành trụ” của thế giới này là sự “hoại không” của thế giới khác và ngược lại. Con người trong vòng luân hồi – sinh tử có thể trải qua nhiều thế giới. Chúng được phân ra làm tam giới: dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Nghiệp là luật ghi nhận các chủng tử do hành động, ngôn ngữ và suy nghĩ của con người đã tạo ra. Chủng tử “nghiệp” như chất xúc tác để các yếu tố (ngũ uẩn) hội đủ điều kiện tạo sự “luân hồi” của chủ thể ở thế giới nào đó hay thế giới người.

Nghiệp và luân hồicó giá trị đạo đức tôn giáo độc đáo, như một vị quan toà phán xử vô tư. Con người tự tạo nghiệp và nhận lãnh quả từ chính nghiệp mình gây ra. Làm nghiệp lành thì hưởng quả lành và ngược lại. Nghiệp và luân hồi luôn cảnh tỉnh con người phải tư với chính hành động của mình và động viên con người tự giác làm điều thiện. Tuy nhiên, lập trường tôn giáo thể hiện rõ trong đạo đức đạo Phật. Con người đạo đức của đạo Phật là con người phi giai cấp, phi lịch sử. Mọi mâu thuẫn khác nhau về quyền lợi, về dân tộc... đều được cào bằng đến khi con người trở lại với con người tâm lý, đạo đức, tâm linh để tìm lại chính mình trên con đường tới cõi Niết bàn. Song có lẽ đây cũng chính là điểm thuận lợi để đạo Phật được mọi tầng lớp, mọi cộng đồng, mọi dân tộc chấp nhận theo cách riêng của mình.

Giải thoát luậncủa đạo Phật không thừa nhận có Chúa, không có đấng tối cao. Đạo Phật khẳng định tất cả mọi người, mọi chúng sinh đều bình đẳng trên con đường giải thoát. Đạo Phật phê phán cả quan điểm chủ nghĩa khoái lạc lẫn chủ nghĩa khổ hạnh. Giải thoát luận của Đạo Phật là triết lý vô thần, bình đẳng và trung đạo. “Niết bàn” là “cảnh giới” lý tưởng của giải thoát luận đạo Phật. Trên cơ sở bản thể luận và nhận thức luận có tính hướng nội một cách nhất quán, Niết bàn là thoát ly khái niệm, thoát ly mọi hình tướng, nằm ngoài phạm vi khảo sát và miêu tả. Đạo Phật đã khôn ngoan dùng một loạt phủ định từ để định nghĩa Niết bàn: “Niết bàn là ngoài không gian, thời gian, là bất sinh tử, là ái diệt, khổ diệt, thâm sân si diệt, thức diệt, hành diệt, vô minh diệt....” Nội dung quá trừu tượng của Niết bàn phần nào làm cho tính khả thi của giải thoát luận giảm mất tính hấp dẫn.

Đạo Phật đã khắc phục điều đó bằng cách phân Niết bàn làm 2 loại: Niết bàn hữu dư và Niết bàn vô dư.

-Niết bàn hữu dưlà cảnh giới giải thoát khi còn trong vòng luân hồu sinh tử, nôm na là đang còn sống.

-Niết bàn vô dưlà cảnh giới giải thoát ngoài vòng luân hồi sinh tử, có nghĩa là sau khi chết.

Sự phân đôi này đã vẽ được khả năng đạt tới Niết bàn ngay kiếp hiện tại và kích lệ được niềm tin và sự tu dưỡng, đồng thời bổ sung thâm nghĩa cho khái niệm “chết” - chết là khả năng đạt tới Niết bàn chứ không đơn nghĩa là sự tan rã của ngũ uẩn.

Phật tính là phẩm chất lý tưởng của người đạt được giải thoát. Ban đầu Phật tính có nghĩa là sự giác ngộ (tuệ/huệ) trọn vẹn về giải thoát. Đạo Phật phân biệt tuệ (wisdom) với kiến thức (knowledge). Kiến thức chỉ là sản phẩm của tư duy ngã tính, một phần của con người, mà không phải là con người toàn diện. Nó không nói lên thực tại vô ngã và hạnh phúc chân thật vô ngã. Chỉ có trí tuệ (chánh kiến và chánh tư duy) có mặt thì con người toàn diện mới có mặt.

Trước Thiền tông thì Phật giáo cho rằng con đường tới Niết bàn là phải thoát nghiệp bằng tu Giới, Định, Tuệ suốt đời và nhiều kiếp không ngưng nghỉ thì đến một thời điểm nhất định sẽ đạt được giác ngộ và thoát khỏi vòng luân hồi. Thiền tông đã đề xướng một con đường giác ngộ rút ngắn, trực tiếp, ngay lập tức, gọi là Đốn ngộ, và phân biệt con đường tu Giới, Đinh, Tuệ của Phật giáo trước Đại thừa là Tiệm ngộ.

Đốn ngộ đề cao khả năng trực giác có thể ngay lập tức đạt được giải thoát, do vậy lại nảy sinh thức mắc liệu quá trình này còn câu nệ vào quá trình tu luyện và sự am hiểu giáo lý hay không. Tại đây Đốn ngộ có khuynh hướng đẩy vấn đề giải thoát ra khỏi phạm vi tôn giáo của đạo Phật, đồng thời nó cũng là lý tưởng tôn giáo đầy thần bí để đạo Phật có sức thâm nhập hơn các tôn giáo khác.

Giải thoát luận của đạo Phật mới chỉ chú trọng sự giải thoát trong phạm vi lĩnh vực tinh thần, đạo đức, tâm lý của con người cá nhân chứ chưa phải là sự giải phóng hiện thực, phá bỏ tận gốc những bất công, đau khổ của đời sống kinh tế-xã hội trong xã hội.

Con người lý tưởng của đạo Phật là Chư Phật, La Hán, Bồ Tát đã từ bỏ ái dục, thoát được các nhu cầu tự nhiên như “không bất mãn với điều kiện không ưa”, “thoát khỏi mọi dính mắc với cái thân ngũ uẩn”,... Đạo Phatạ coi những nhu cầu thoả mãn thể xác và tinh thần là “trần tục” là tha hoá bản chất người và tại đây, tính nhân văn của đạo Phật tỏ ra thiếu hoàn hảo và chưa phát huy được lôgíc của Giải thoát luận.

Con người của đạo Phật là con người “xuất thế”, tránh việc thoả mãn các nhu cầu tự nhiên tới mức tự “diệt dục”, “phi bạo lực”, thích nghi với mọi điều kiện và không phản kháng (cả chính nghĩa và phi nghĩa). Mô hình lý tưởng là con người bình đẳng về đạo đức, tất cả đều “thiện/tốt” và không còn phân biệt đẳng cấp, không còn khác nhau về nhu cầu vật chất và tinh thần. Song thực tế có bao nhiêu người như vậy??

Kết luận

Với bất kỳ kiến thức nào, chúng ta cũng thường đắn đo nó đúng hay sai để từ đó quyết định là có nên tin, nên làm theo, nghĩ theo hay không. Việc đắn đo này dựa vào kinh nghiệm của từng cá nhân. Nhiều điều đến cuối đời, bằng trải nghiệm từ tấm bé đến tuổi già, chúng ta mới thấy thấm thía và tin tưởng thực sự.

Đại đa số người Việt Nam khi về già đều tin và theo một số những điều hay lẽ đúng trong giáo lý đạo Phật. Chính những điều sâu sắc đó của đạo Phật đã giúp họ châm trước những điểm còn chưa chặt chẽ, những điều chưa thực đúng khi nghiệm vào bản thân.

LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Ảnh hưởng của Phật giáo với con người Việt Nam

    29/05/2018Từ khi du nhập Việt Nam đến nay, Phật giáo đã tồn tại và gắn liền với lịch sử dân tộc, nó ngấm sâu vào tư duy và trở thành một bộ phận văn hoá, nếp sống của người Việt. Vậy nó ảnh hưởng đến con người Việt Nam như thế nào?
  • Tín ngưỡng

    07/08/2017Nguyễn Trần BạtLà một vấn đề vô cùng phức tạp, thực ra tín ngưỡng không phải là hiện tượng mê tín thuần tuý theo cách hiểu thông thường. Lịch sử cho thấy rằng các loại tín ngưỡng khác nhau có sức sống dai dẳng và ảnh hưởng lâu dài mà khó có hệ tư tưởng nào sánh được...
  • Thử bàn về biểu hiện của tôn giáo

    24/10/2014Đặng Nghiêm VạnLà sản phẩm của xã hội, tôn giáo tồn tại và thay đổi với xã hội loài người. Con người có nhu cầu vật chất, cũng có nhu cầu tinh thần trong đó có nhu cầu tôn giáo. Đã có một thời, mỗi một thị tộc, bộ lạc, một dân tộc đều có tôn giáo riêng của mình. Về sau, qua sự giao lưu văn hoá trong từng khu vực hoặc trên khắp toàn cần, bằng phương pháp hoà bình hay vũ lực, nảy sinh hiện tượng có nhiều tôn giáo phổ cập trên toàn cầu hoặc trong từng khu vực trên nhiều quốc gia, ngược lại có hiện tượng một quốc gia có nhiều tôn giáo...
  • Nghiên cứu nho giáo Việt Nam trong bối cảnh khu vực và thời đại

    29/09/2013Phó GS Phan Văn CácNho gia vốn quy giá trị nhân sinh thành giá trị xã hội, cho rằng con người phải có trách nhiệm nhất định đối với gia đình, xã hội, đất nước và cả thế giới: đó là lí tưởng cuộc đời và lẽ sống của mỗi người...
  • Vì con người hãy giúp con người

    20/09/2013Nguyễn Chu PhácLịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh sức mạnh không ở mãi trong tay một người, văn minh không nằm mãi ở một vùng. Tự nhiên sẽ tiếp tục vận động, xã hội cũng vận động. Người nắm trong tay sức mạnh vật chất, đồng tiền và quyền lực hãy tỉnh táo cố tự ghìm mình. Kẻ ác sẽ phải trả giá cả về vật chất và tinh thần nặng hơn gấp nhiều lần điều ác mà họ gây ra...
  • Triết lý dân tộc Việt Nam qua tục ngữ

    10/03/2006Võ Thu TịnhTheo các nhà biên khảo thì các câu tục ngữ là một "quyển sách khôn, một kho tàng kinh nghiệm và hiểu biết về vũ trụ và về nhân sinh" giúp cho dân gian ta "có được một tri thức thông thường để làm ăn và cư xử ở đời"...
  • Con người và tâm linh

    27/01/2006Phan QuangTết đến, xuân về. Phần đông gia đình người Việt, trong việc "sắm Tết", hầu như chẳng mấy ai không nghĩ đến dăm bông hoa, vài nén hương lễ gia tiên. Đó là cách hành xử văn hóa thể hiện mối quan hệ truyền thống mang tính dân tộc đối với thế giới tâm linh...
  • Lê Thánh Tông - vị vua hiền tài, nhà Văn hóa lớn của dân tộc

    09/01/2006Anh ChiLà người yêu dân yêu nước thiết tha, khi ở ngôi, Thánh Tông tỏ ra là nhà tổ chức vô cùng tài giỏi, có tinh thần cải cách táo bạo và một ý chí tự cường dân tộc hết sức mạnh mẽ.
  • Từ quan niệm về con người trong lịch sử đến quan niệm về con người Hồ Chí Minh

    07/01/2006Phó GS. TS. Nguyễn Tĩnh Gia...vấn đề con người có vẻ cũ, nhưng nó lại luôn mới mẻ, luôn có vấn đề phải nói rằng, nó là vấn đề của mọi vấn đề. Để có được quan niệm khoa học về con người trong thời đại Hồ Chí Minh, lịch sử đã từng tiếp cận vấn đề con người bằng những phương pháp khác nhau
  • Các hệ tư tưởng và môi trường văn hóa, xã hội

    01/01/2006Nguyễn Đức ĐànMôi trường lịch sử, văn hóa và xã hội của Việt Nam cuối thế kỷ XIX và trong nhũng thập kỷ đầu của thế kỷ XX là một môi trường đặc biệt, nóng bỏng những đổi mới về mọi mặt, báo hiệu một thời kỳ đang chuyển hướng mạnh mẽ. Có thể khẳng định đây là thời kỳ bản lề của lịch sử văn hóa dân tộc sau bao nhiêu thế kỷ êm ả, tĩnh tại...
  • Cái thiêng tôn giáo

    29/11/2005Hồ LiênÝ tưởng về sự thiêng liêng đã xuất hiện khá sớm trong bước chuyển từ con người động vật thành con người xã hội. Ý tưởng ấy là sản phẩm của đời sống xã hội, khi nhu cầu gắn kết các thành viên của cộng đồng đòi hỏi một đức tín về nguồn gốc thánh thần và ý nghĩa cao quý của cuộc sống con người.
  • Đạo Khổng còn hợp với thời nay không?

    26/11/2005Nguyễn Văn NghệGần đây, trong mối giao lưu và hội nhập ngày càng được đẩy mạnh với các nước trong khu vực, nhiều học giả đã quay trở lại với việc đánh giá vai trò của Nho giáo trong xã hội Việt Nam thời hiện đại. Bài viết sau giúp bạn đọc tổng hợp một số ý kiến của các học giả nước ngoài, và quan diểm của một số nhà nghiên cứu Việt Nam...
  • Tiêu chí kiểm định đạo đức con người qua tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam

    02/11/2005Lê Huy ThựcTục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam là kết quả lao động sáng tạo, thể hiện những tài triết lý sâu sắc được đúc rút từ thực tiễn của cha ông ta. Chúng ta thấy trong đó chứa đựng nhiều việc cụ thể, hoặc nhận thức cảm tính và suy luận… Mặc dù vậy, tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam cũng thừa nhận rằng, việc kiểm định đạo đức con người không phải là dễ dàng, đơn giản; song không phải vì thế mà ý nghĩa của tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam giảm đi, mà trái lại, càng nói lên giá trị hiện thực của loại hình văn học độc đáo này...
  • Về nguồn gốc triết học Việt Nam

    28/10/2005TS. Trần Văn KhánhMặc dù một số tài liệu cả trong nước và ở nước ngoài đã nói về triết học Việt Nam(1), song một câu hỏi mà cho đến nay vẫn chưa có sự trả lời thống nhất trong giới lý luận - đó là: Việt Nam có triết học không? Nếu có thì đó là triết học gì? Nguồn gốc ra đời, sự tồn tại và phát triển cũng như vai trò của nó đối với hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của dân tộc ta như thế nào?
  • Tôn giáo có ý nghĩa gì?

    15/07/2005F. Engels trong tác phẩm Chống During đã chỉ ra bản chất của Tôn giáo: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc của con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”.
  • Khoa học và tôn giáo phụ thuộc lẫn nhau

    15/07/2005Đây là bản lược dịch bài Science & Religion are interdependent của nhà bác học Albert Einstein. Nó cũng đồng thời phản ánh rõ nhất quan điểm của nhà bác học về vấn đề Tôn giáo...
  • xem toàn bộ