Nhất chi mai
Từ trong sâu thẳm tâm thức con người Việt
Phải lạc quan, vì không, thì làm sao sống trong cái thế kẹt địa - chính trị của một đất nước luôn phải thường trực chống lại giặc ngoại xâm luôn lớn hơn mình gấp bội, đã từng chịu cái họa nhỡn tiền của hơn nghìn năm. Bắc thuộc, rồi tiếp đó, triền miên binh lứa, đánh giặc giữ nước là nội dung những trang sử qua tất cả các triều đại. Truyền thuyết
Không chỉ có lốt chân ngựa
Thế hệ hôm nay cần phải nghe ra “Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất, Những buổi ngày xưa vọng nói về” đó chính là văn hóa, là bản sắc là cốt lõi của văn hóa dân tộc. Các thế hệ Việt
Về nguyên lý, thì sông thề nào cũng đổ ra biển. Nhưng trên thực địa, con sông nào cũng phải uốn lượn vòng vèo qua từng khúc quanh co, vì buộc phải nhân nhượng và hòa giải với đặc điểm của địa hình từng vùng mà sông phải đi qua! Nhưng cho dù có vòng vèo thế nào đi chăng nữa thì cuối cùng nó vẫn phải tuân theo nguyên lý chảy ra biền. Mà có được điều đó là nhờ sức cuộn cháy mãnh liệt từ bên dưới, vượt qua những thác ghềnh, những lực cản. Nhưng dù uốn lượn vòng vèo cách gì, các con sông đều chảy. Và, "dòng sông phải chảy ra biển mới gọi là trung thành với ngọn nguồn của nó, ý tưởng của Jaurès, nhà cách mạng Pháp. Đúng vậy, trung thành với truyền thống không có nghĩa là quay về những thế kỷ đã lụi tàn để ngắm một dãy dài những bóng ma, trái lại, đem hết sức mình tiến về phía trước như dòng sông chỉ có chảy ra biển.
Quyết định tốc độ dòng chảy và hướng đến của dòng sông là sức cuộn chảy từ bên dưới. Lúc nào bộ phận lãnh đạo nắm bắt được sự kỳ diệu của sức cuộn chảy từ bên dưới ấy, tự nâng mình lên ngang tầm với dân tộc để đáp ứng được đòi hỏi của cuộc sống, chủ động khơi thông dòng cháy, lúc ấy sức sống của dân tộc trào dâng như nước vỡ bờ, không sao lường trước được. Mà để có được cái tầm ấy thì họ phải biết cách trân trọng hiền tài, biết thu hút, biết quy tụ trí thức, bộ phận tinh hoa của trí tuệ đất nước với nhận thức rằng: "trọng học vấn, trọng nhân tài, xem đó là cái đáng quý nhất, có nó thì sẽ có tất cả, không có nó thì những cái còn lại chẳng còn gì đáng giá" (Phạm Văn Đồng).
Lòng trung thành ấy chính là trung thành với sự nghiệp của cha ông đã gây dựng nên lịch sử dân tộc. Trung thành với dân tộc là sự trưng thành sâu nặng nhất, bền vững nhất, là đạo lý muôn đời của cuộc sống Việt Nam. Cuộc sống của một đất nước “Vốn xưng văn hiến đã lâu... dẫu mạnh yếu có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có" (Nguyễn Trãi). Hào kiệt được gọi dậy từ những lốt chân ngựa Thánh Gióng nọ, những mỏm đồi 99 con voi và 1 con cụt đầu kia, và biết bao những huyền thoại và truyền thuyết trải dài trên khắp đất nước. Cậu bé làng Phù Đổng bay về trời nhưng vẫn để lại những lốt chân ngựa, những búi tre đằng ngà, tên gọi loại tre xanh đã bị cháy sém trong ngọn lửa của ngựa thần đốt cháy giặc ngoại xâm. Phải dạy cho con trẻ Việt Nam biết nhìn cho ra những khoảnh ao kia, những bụi tre đằng ngà ấy đích thị là dấu tích của Thánh Gióng. "Ba tuổi đã hiềm là quá muộn", thể hiện khát vọng sống và ý chí lạc quan, nguồn mạch của truyền thống, của sức mạnh văn hóa Việt Nam.
Hãy tin vào huyền thoại, vì đó là khát vọng sống, là sức sống của nền văn.hóa được lưu giữ trong từng ngôi làng quê Việt
Không có cái để mà tin thì làm sao sống? Mà không tin vào sự kỳ diệu của sức sống Việt
Văn hóa theo ý nghĩa đúng đắn nhất và cao đẹp nhất chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đong dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao sóng gió thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua được, để không ngừng phát triển và lớn mạnh. Cốt lõi của nó chính là cái đạo lý làm người của dân tộc Việt Nam. Mọi lý luận cách mạng đều phải "hòa nhập vái đạo lý làm mgo cỉa dân tộc, phải trở thành sức mạnh của dân tộc” (Lê Duẩn) thì mới có thể phát huy tác dụng trong chỉ đạo thực tiễn.
Đôi mắt trực quan có khi không nhìn thấu rỡ sức sống ấy, súc mạnh ấy. Khác nào khó nhìn thấy súc nước cuộn cháy từ bên dưới lóng sông hơn là bèo bọt và váng nước nổi trên mặt. Nước càng chảy xiết, bọt nước và váng bẩn càng nổi lên nhiều, nhất là ở những quãng nước xoáy. Những con mắt chi nhìn thấy bọt nước và váng bẩn nối trên mặt mà không thấy được, không nhìn cho ra sức nước cuộn chảy từ bên dưới, sẽ không có được, ý chí lạc quan, sức mạnh của niềm tin, không có bản lĩnh vượt qua nổi.
Cốt cách văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc không có được bao nhiêu ở nhịp sống hối hả, chụp giật trong cuộc mưu sinh nơi phồn hoa đô hội kia. Nó dị ứng với cái gọi là sự "sành điệu”, thay vì nếp thu một cách có chọn lọc những thành tựu của văn minh mà loài người đã đạt được để làm giàu cỏ thêm cho truyền thống văn hóa dân tộc, thì lại ăn tươi, nuốt sống những sản phẩm ngoại lai chưa kịp tiêu hóa, hoặc vội tiêu hóa những rác rưởi, cặn bã của nền văn minh đã thải loại ra? Những hợm hĩnh đáng thương, những nhố nhăng tội nghiệp, những đua đòi kệch cỡm... do thiếu một nền tảng giáo dục gia đình, cũng như thiếu một cái nhìn nhất quán, sâu sắc trên cái nền nhân bán về hiên đại hóa truyền thống và truyền thống hóa hiện đại trong nội dung giáo dục và cách giáo dục tư tưởng và văn hóa trong nhà trường, cũng như ngoài xã hội. Vấn đề này sẽ nổi cộm lên khi chúng ta đang chủ động dấn bước sâu vào con đường hội nhập.
Bởi một lẽ thật đơn giản: chúng ta đến với thế giới và thế giới biết đến ta chủ yếu là gì, nếu không từ sức mạnh văn hóa Việt Nam? Về kinh tế thì chúng ta đang là vận động viên chạy áp chót trong cuộc đua toàn cầu. Chỉ tính đơn thuần với những con số thống kê. mà UNDP vừa công bố, thì với tốc độ phát triển như năm nay, phải 15 năm nữa chúng ta mới đuổi kịp kinh tế của Thái Lan, nhưng là Thái Lan năm 2003. Chỉ có thể bứt lên khi chúng ta đặc biệt coi trọng phát triển chiều sâu nâng cao hàm lượng chất xám trong sản phẩm. Nói một cách khác, phải đi lên bằng sức mạnh của văn hóa được hiểu một cách đầy đủ nhất và hiện đại nhất.
Thế nhưng, cũng chính ở đây, bên cạnh những lợi thế đã phân tích ở trên, thì cũng lại phải dám nhìn thẳng vào sự thật của tình trạng lạc hậu về thông tin, về khoa học và công nghệ, tức là về những thành tựu của văn minh loài người đạt được, đặc biệt là trong thế kỷ XX. Chính khi đã đứng trên đỉnh cao của chiến thắng, chúng ta lại tự cô lập mình với những thành tựu lớn lao của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ của thế giới, trước hết và chủ yếu là thành tựu của văn minh phương Tây.
Những kỳ tích chúng ta đạt được có cội nguồn từ sức mạnh văn hóa, nhưng những lạc hậu, yếu kém, chậm phát triển, cũng lại có gốc gác từ văn minh, thể hiện trước hết là tư tưởng bảo thủ và tầm nhìn thiển cận của giới sĩ phu nước ta đối diện với hiểm họa của chủ nghĩa thực dân phương Tây thế kỷ XIX. Sự co lại không muốn tiếp xúc với bên ngoài để lại những hệ lụy đau đớn. Trong lúc đó, cái gọi là sự phát triển "thần kỳ Nhật Bản" là nhờ nước Nhật sớm mở cửa và biét tiếp nhận những thành tựu của các nước công nghiệp, trước hết là thành tựu văn hóa, văn minh. Chỉ một ví dụ có thể nói được điều đó. Năm 1868, Nhật đã cho dịch cuốn “Bàn về tự do của Jonh Stuat Mill, một tác phẩm được xem là kinh điển xuất bản ở Anh năm 1859, tức là 10 năm trước đó. Cuốn sách được in đến 2 triệu bản trong khi dân số Nhật lúc đó chỉ 36 triệu người. Và, cuốn sách đó chỉ được dịch và in với số lượng 2.000 cuốn ở nước ta năm 2004! Chỉ nói đơn thuần chuyện tiếp cận với thông tin và tri thức, chúng ta đã chậm hơn Nhật một thế kỷ rưỡi, đấy là chưa kể số lượng in "hơn 2.000 lần!
Biết nhận ra cái mạnh, quan trọng hơn, nhận ra cái yếu của mình là bản lĩnh của người mạnh, biết mình cần phải làm gì, là bản lĩnh của người lạc quan, tin rằng mình sẽ làm được điều cần làm. Và rồi ớ đây, ta bắt gặp sự ngẫu nhiên thú vị với công bố “người Việt Nam lạc quan nhất thế giới” do Tổ chức Crallup International (GIA) đưa ra từ kết quả cuộc khảo sát ở quy mô toàn cầu.
Phải biết và dám tin vào kết quả được công bố đó. Không phải là nhằm tự huyễn và tự ru ngủ mình. Ngược lại, để biết tạo ra một xung lực mới nhằm mạnh dạn và sáng tạo, dám và biết cách bứt phá, từ vị thế chạy áp chót mà vượt lên trong cuộc đua sau khi đã vào WTO. Phải làm cho chất men say của ý chí lạc quan tiếp thêm sức trên chặng đường mới của lịch sử.
Mà đâu phải chi hôm nay ta mới biết lạc quan. Ông cha ta đã từng nuôi dưỡng ý chí ấy, tinh thần ấy. Xin hãy đọc mấy câu thơ của Thiền sư Mãn Giác đời Lý thế kỷ XI (1052 - 1096): "Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”. (Đừng bảo xuân tàn hoa cũng rụng hết, Đêm hôm qua, trước sân [rộ] một cành mai).
Nhân buổi Xuân về, xin hãy ngắm cành mai của niềm lạc quan thanh khiết và bất tận mà vị Thiền sư thế kỷ Xl để lại cho tâm hồn Việt Nam the kỷ XXI hôm nay, đặng mà biết cách thưởng xuân, mà tăng thếm sức xuân.
Nội dung khác
Nền tảng văn hóa nào cho lễ hội?
26/02/2021Nguyên CẩnNguyễn Vỹ: Tầm - Tâm - Tài và Tình của một người làm báo
26/02/2021TS. Mai Bá ẨnNguồn gốc chữ Tết
26/02/2021Nguyễn Tiến HữuChúng ta của hiện tại
26/02/2021Trương Trọng HiếuCó gì đặc biệt trong thư từ chức của người giàu nhất thế giới Jeff Bezos?
26/02/2021Khởi VũXã hội - Ái quần - Gia đình có phải là ái quần không?
24/02/2021Khuyết danhCon người hiểm độc
01/01/1900Phạm QuỳnhCơ hội thứ tư - toàn cầu hóa
18/04/2004Nguyễn Trần BạtThấy gì qua lối sống sinh viên thời nay?
21/10/2003Trương HiệuBa yếu tố làm nên thành công của doanh nhân
29/07/2005Nguyễn Trần BạtClip: Chúng ta luôn bên nhau
01/01/1900Protagoras và khai minh Hy Lạp
01/01/1900Bùi Văn Nam Sơn