Đã đến lúc nói về “Giá trị chung nhân loại”

07:47 CH @ Thứ Hai - 25 Tháng Mười Một, 2013
“Giá trị chung nhân loại” – Cụm từ nghe vừa lạ, vừa quen. Quen vì khi tách ra thành những từ riêng biệt, chúng vô cùng gần gũi với mọi người. Còn lạ là vì sự kết hợp này có vẻ chưa thật nhuyễn, nói chưa quen miệng, nghe chưa quen tai. Song, đây là một khái niệm có vai trò quan trọng trong khoa học. Dẫu vẫn bị một số nhà chính trị thiển cận nghi ngại, nhưng đã đến lúc chúng ta cần công khai nói về điều này...

Đi tìm nguồn gốc và xác định nội dung khái niệm “Giá trị chung nhân loại”

Khi làm việc và suy nghĩ hàng ngày, trong tôi luôn luôn tồn tại những ý nghĩ về giá trị, có khi rất chung, có lúc rất cụ thể. Hàng chục năm nay, khi nghiên cứu, viết bài, giảng dạy, trong đầu tôi thường hiển hiện những giá trị lớn, có tính phổ quát cao nhưng chưa được gọi lên thành tên, thành khái niệm, nghĩa là chúng chưa có “vỏ” ngôn ngữ trong tiếng Việt. Tuy vậy, chúng luôn ở trong tôi, làm cơ sở cho tư duy của tôi. Điều đó diễn ra trong thực tế suốt một thời gian dài. Khi được biết Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh dự định tổ chức Hội thảo với chủ đề “Khoa học xã hội thời hội nhập”, tôi suy nghĩ và cho rằng, đã đến lúc cần gọi tên chúng ra, tôi gọi đó là “Giá trị chung nhân loại”.

Có lẽ, tôi không phải là người đầu tiên nghĩ ra và sử dụng cụm từ “Giá trị chung nhân loại” trong tiếng Việt. Đây cũng không phải lần đầu tiên tôi sử dụng. Tôi đã sử dụng cụm từ này trong một số bài viết vào cuối những năm tám mươi của thế kỷ trước, khi tôi còn công tác tại Tạp chí Cộng sản. Nhưng lúc đó tôi sử dụng theo cảm tính, chưa thấy hết sự phong phú, đa dạng, đa diện của khái niệm này.

Có thể ở đâu đó, lúc nào đó trong thời gian gần đây, những ai đó đã sử dụng cụm từ này rồi. Tôi muốn đi tìm nguồn gốc và hiểu thấu đáo về khái niệm này. Vào Internet, tìm đến Google.com, gõ tiếng Việt “Giá trị chung nhân loại”, trên màn hình máy tính hiện lên dòng chữ: “Có phải bạn muốn tìm: Giá trị trong nhân loại?”. Tôi thử lại nhiều lần, kết quả vẫn thế. Chỉ đến khi đưa cụm từ “Giá trị chung nhân loại” và trong ngoặc kép (“…”) thì mới xuất hiện vài ba kết quả có cụm từ “Giá trị chung nhân loại” liên quan đến Nhật Bản, Ucraina, Nhà văn Nguyễn Quang Sáng”.

Như vậy có nghĩa là cụm từ “Giá trị chung nhân loại” trong tiếng Việt chưa được nhắc tới nhiều trong thời gian gần đây. Do đó, việc truy tìm nguồn gốc, xác định nội dung cụm từ này như một khái niệm là điều cần thiết.

Muốn hiểu thế nào là “Giá trị chung nhân loại”, trước hết phải tìm hiểu “Lý thuyết giá trị”. Đây là lĩnh vực được nghiên cứu khá rộng rãi và kết quả cũng khá dồi dào. Tuy nhiên, việc tồn tại những quan điểm về giá trị khác nhau là điều không tránh khỏi.

Từ “Lý thuyết giá trị” đến việc công nhận “Giá trị chung nhân loại” là một quá trình khó khăn, không đồng nhất ở nhiều trung tâm, nhiều trường phái khoa học khác nhau. Song, có một điều cần thấy rõ: Hầu như không có nhà khoa học nào phủ nhận có những giá trị có tính phổ quát cao, khiến tất cả mọi người đều phải công nhận. Đó là: Điều thiện, Cái đẹp, Tình yêu thương, Tự do, Bình đẳng, Lương thiện, Khoan dung…

Các học giả phương Tây có nhiều công trình nghiên cứu về giá trị, nhất là giá trị con người. Trong tiếng Anh, có những cụm từ: “The Origins of Universal Human Values”, “All Human Values”, “Whole Human Values”, “Common Human Values” … có nghĩa khá giống với cụm từ “Giá trị chung nhân loại” trong tiếng Việt, nhưng cũng không có cụm từ nào có ý nghĩa tương đương trùng khít. Hơn nữa, cách hiểu và cách sử dụng của những tác giả lại khác nhau.

Ví dụ, Wendell Bell – Giáo sư Đại học Yale University cho rằng: Nhiều dân tộc trên thế giới cũng đề cao các giá trị: Quyền riêng tư; Đối xử với người khác như mong muốn họ đối xử với mình; Tôn trọng cuộc sống, Thân thiện với thiên nhiên, Có lòng vị tha…

Ở Tây Âu có tổ chức Internatianal Association for Human Values (IAHV) đóng trụ sở tại Geneve (Thuỵ Sỹ) đặt ra mục đích: “To foster on a global scale, a deeper understanding of the values that us as human commynity” (Thúc đẩy nhận thức sâu hơn những giá trị trên phạm vi toàn cầu”. Những giá trị đó là:

  •     The innate dignity of human life (Xứng đáng với đời sống con người tốt đẹp bẩm sinh);
  •     Respect and consideration for the “other” (Tôn trọng và công nhận giá trị của những “người khác”;
  •     The interconnection between humankind and thus the need to care for and preserve the earth (Mối liên quan giữa xã hội và thiên nhiên, nhu cầu quan tâm và bảo vệ trái đất);
  •     The importance of integrity and service (Tầm quan trọng của sự thống nhất và hỗ trợ lẫn nhau);
  •     An attitude of non-violence (Ýchí tránh bạo lực);
  •     The individual and collective quest for peace and happiness (Khát vọng của cá nhân và tập thể vương tới hoà bình và hạnh phúc)

Trong tiếng Nga có cụm từ “Общая человеческая ценность” có ý nghĩa gần như trùng khít với “Giá trị chung nhân loại” trong tiếng Việt. Nhưng các học giả người Nga lại cho rằng, họ cũng không biết ai là tác giả, cũng như nguồn gốc ra đời của cụm từ này. Họ cho rằng cụm từ “Общая человеческая ценность” được sử dụng nhiều trong thời kỳ “Cải tổ” với người khởi xướng là Gorbatrov ( Lúc đó là Tổng Bí thư Đảng cộng sản Liên Xô, Tổng thống Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết). Tuy nhiên, họ chỉ ra rằng, cụm từ này có từ trước đó rất lâu. Trong Đại từ điển bách khoa toàn thư của Liên Xô, hay Từ điển bách khoa toàn thư văn học xuất bản từ những năm ba mươi của thế kỷ XX đã nói đến những giá trị chung nhân loại. Ví dụ, “Trong xã hội cổ đại, những giá trị chung nhân loại đã được tạo ra. Triết học, văn chương, hội hoạ, kiến trúc phát triển ở trình độ cao đã đạt đến những giá trị này”.

Các học giả người Nga cũng khẳng định: Cụm từ “Общая человеческая ценность” không có ý nghĩa tương đương trùng khít với tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức…, nghĩa là họ cho rằng, “Общая человеческая ценность” cũng được các học giả phương Tây quan tâm, nghiên cứu, nhưng cách nhìn nhận của họ có đôi chút khác biệt với cách nhìn nhận của người Nga. Và cụm từ “Общая человеческая ценность” trong tiếng Nga không có nguồn gốc, hay không được “dịch thẳng” từ ngôn ngữ nào đó của các nước châu Âu.

Sau khi Liên Xô sụp đổ, có một thời gian người Nga cũng ít đề cập tới “Giá chung nhân loại”, nhưng gần đây họ xem “Giá trị chung nhân loại” có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống, là cơ sở để định hướng nhiều hoạt động trong xã hội, xây dựng nhiều chương trình quan trọng, trong đó có chương trình giáo dục.

Một học giả người Nga N. G. Sevostjanova muốn khái quát “Giá trị chung nhân loại” bằng lời lẽ như sau:

Giá trị chung nhân loại là một hệ thống những giá trị có tính phổ quát mà nội dung của chúng không liên quan trực tiếp, không phụ thuộc vào bất cứ giai đoạn cụ thể nào của phát triển lịch sử, hay truyền thống xã hội của một dân tộc nào cụ thể, nhưng lại tích hợp trong mỗi truyền thống văn của mỗi dân tộc bằng ý nghĩa cụ thể, và được tái hiện trong bất kỳ loại hình văn hoá nào với tư cách chất lượng của giá trị. (Có thể đọc toàn bộ văn bản ở địa chỉ http:// fil.vslovar. org.ru)

Có thể xem đây là định nghĩa về “Giá trị chung nhân loại” của một người đưa ra. Do vậy, sự chính xác và dễ hiểu của nó còn hạn chế. Nhưng nó cũng đã cung cấp cho chúng ta những ý niệm về những giá trị chung nhân loại.

Có nhiều cách phân loại những giá trị chung nhân loại.

  •     Trong tự nhiên: Đó là những khoáng sản có ích, cây cối, vẻ đẹp thiên nhiên, sông núi, ruộng đồng…;
  •     Trong đời sống xã hội, có thể chia ra nhiều lĩnh vực.
  •     Trong chính trị: hoà bình, tự do, dân chủ, bình đẳng…,
  •     Trong văn hoá - đạo đức: danh dự, lương tâm, trách nhiệm…;
  •     Trong khoa học: chân lý;
  •     Trong tôn giáo: niềm tin;
  •     Trong văn học - nghệ thuật: cái đẹp, cái cao cả, sự hoàn mỹ…

Tuy nhiên, để đại bộ phận quần chúng công nhận những giá trị chung nhân loại cụ thể, các nhà lý luận, các nhà khoa học còn rất nhiều việc phải làm.

Thuyết phục mọi người công nhận “Giá trị chung nhân loại” trên thực tế


Dù có đưa ra những định nghĩa về “Giá trị chung nhân loại” thế nào đi chăng nữa cũng khó mà bao quát toàn bộ nội dung của khái niệm này. Những nghiên cứu, phân loại “Giá trị chung nhân loại” trong các tác phẩm, các công trình khoa học của các học giả nước ngoài khá nhiều, nhưng họ cũng chỉ mới đưa ra những giá trị quen thuộc và dừng lại ở dạng tổng thể, trừu tượng như: Cái đẹp, Điều thiện, Chân lý, Niềm tin, Lương tâm, Danh dự, Dân chủ, Bình đẳng… Những giá trị này ai cũng công nhận, nhưng không ai “cầm nắm” được chúng trong tay.

Từ xưa đến nay, trong nhiều trường hợp, những giá trị chung nhân loại thường được nhìn nhận dưới góc độ chính trị. Do xem nặng ý nghĩa chính trị của các loại giá trị nên chúng ta rất khó thống nhất với nhau, vì lợi ích và quan điểm của các quốc gia trong lĩnh vực này thường là khác nhau. Đặt giá trị chung nhân loại dưới góc nhìn khoa học mới có thể đi đến thống nhất quan điểm được. Giá trị chung nhân loại có cả trong lĩnh vực khoa học, tôn giáo, đạo đức, văn học, nghệ thuật… và cả kinh tế nữa. Ví dụ, cơ chế hoạt động của kinh tế thị trường là một trong những giá trị chung nhân loại. Dẫu nhiều nhà khoa học chỉ ra rằng, nền kinh tế thị trường chưa hoàn hảo, vẫn còn những khiếm khuyết lớn, nhưng đến nay vẫn chưa ai nghĩ ra loại hình kinh tế tốt hơn; những quy luật của nó vẫn phát huy tác dụng mạnh mẽ ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.

Cần phải khẳng định: Dẫu thế nào thì trên thế giới cũng tồn tại những giá trị được tất cả mọi người, bất kể mang quốc tịch gì, theo tôn giáo nào đều công nhận. Đó chính là những giá trị chung nhân loại. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở những lời lẽ chung chung như vậy, khó mà thuyết phục được ai. Hơn nữa, mỗi người có quan điểm riêng, cách nhìn nhận, đánh giá riêng nên rất có thể nhiều người không công nhận những giá trị chung nhân loại đó có giá trị với họ.

Vậy phải tìm cách đơn giản nhất, dễ hiểu nhất, thuyết phục nhất để chỉ ra rằng, những giá trị chung nhân loại đã và đang tồn tại trong cuộc sống của chúng ta. Để thuyết phục mọi người công nhận có “Giá trị chung nhân loại”, cần chứng minh đơn giản, đi từ những điều cụ thể nhất.

Xin bắt đầu bằng cách chọn lĩnh vực văn học, nghệ thuật để làm điều này. Xin nêu những tác giả, tác phẩm cụ thể luôn. Trên thực tế, hầu như dân tộc nào cũng say sưa thưởng thức tác phẩm Iliad, Odyssaycủa Homer; King Lear, Hamlet, Romeo and Julietcủa Shakepeare;Người con gái viên đại uý, Evgheni Onegin của Pushkin; Phục sinh, Chiến tranh và Hoà bìnhcủa Tolstoi. Thậm chí người ta còn chỉ ra rằng, trong những ngày ác liệt nhất của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, người Nga đọc tác phẩm của các nhà văn Đức; người Đức đọc tác phẩm của những nhà văn Nga. Đây là những ví dụ hùng hồn cho việc có những tác phẩm văn học đã đạt tới tầm giá trị chung nhân loại; chúng vượt qua được mọi rào cản về sắc tộc, tôn giáo, thời đại. Người dân thuộc bất cứ dân tộc nào, theo tôn giáo gì đi chăng nữa cũng say mê đọc những tác phẩm này. Hay những tác phẩm điêu khắc, hội hoạ từ thời cổ đại Hi Lạp – La Mã, thời Phục Hưng hay các trường phái lãng mạng, hiện thực thế kỷ thứ XIX là những tuyệt tác mà tất cả mọi người đều thừa nhận.

Bằng cách đi từ văn học nghệ thuật, lấy những tác giả, tác phẩm cụ thể, chúng ta có thể thuyết phục mọi người công nhận sự tồn tại của những giá trị chung nhân loại. Khi đã có sự công nhận về nguyên tắc ban đầu thì việc công nhận những giá trị tiếp theo là điều tất yếu. Thậm chí có những lĩnh vực chứa đựng những giá trị chung nhân loại một cách hiển nhiên. Nếu trong lĩnh vực khoa học xã hội, những giá trị chung nhân loại đang được hình thành và bàn cãi thì những giá trị chung nhân loại ở khoa học tự nhiên đã được xác lập từ lâu và tiếp tục được làm giàu ở các lĩnh vực toán học, vật lý, hoá học, địa chất, sinh vật…

Bản chất của những giá trị chung nhân loại thuộc lĩnh vực tinh thần không nằm ở chỗ có khát vọng vượt trội của một hệ thống giá trị đối với những giá trị còn lại, mà chúng nằm ở chỗ hình thành những mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau trong việc công nhận ưu tiên những lợi ích của toàn xã hội đối với lợi ích của từng nhóm riêng biệt.

Vai trò của những giá trị chung nhân loại trong thế giới hội nhập


Dù vẫn còn những sự khác biệt về cách hiểu những giá trị chung nhân loại giữa các trường phái học thuật trên thế giới, nhưng sự tồn tại của những giá trị này là có thực, được đông đảo các nhà nghiên cứu công nhận. Điều quan trọng là chính những giá trị này đã và đang đóng vai trò quan trọng trong đời sống quốc tế. Từ những thoả thuận giữa các quốc gia đến các chiến dịch của cứu trợ của các tổ chức phi chính phủ đều có sự tác động của những giá trị chung nhân loại. Không phải ngẫu nhiên, công dân của các nước châu Âu, châu Mỹ đến châu Á, châu Phi để chữa bệnh cho người già, trẻ em. Cũng không phải ngẫu nhiên, các nước phát triển viện trợ không hoàn lại và cho vay vốn ưu đãi để các nước kém phát triển hơn xây dựng hạ tầng cơ sở của mình.

Những tổ chức quan trọng của thế giới như Liên hợp quốc, UNESCO cũng được ra đời và phát triển trên cơ sở công nhận những giá trị chung nhân loại. Và ngày nay, chính những tổ chức này lại góp phần quan trọng vào việc đánh giá và tạo ra những giá trị chung nhân loại thông qua việc làm trung gian hoà giải, giải quyết mâu thuẫn giữa các quốc gia, công nhận những di tích thiên nhiên, văn hoá, lịch sử có giá trị vô cùng lớn lao trên toàn cầu.

Hiểu được vai trò và ý nghĩa của những giá trị chung nhân loại, con người sẽ trở nên cân bằng hơn, ít tham lam hơn, quan tâm hơn đến người khác. Trong phát biểu của những người nổi tiếng trong lĩnh vực khoa học công nghệ và kinh doanh như Steve Jobs (vừa quá cố), Bill Gates, Larry Page đều có điểm chung là họ hiểu và tôn trọng những giá trị chung nhân loại. Do hiểu rất rõ những giá trị chung nhân loại nên nhiều người giàu có trên thế giới giành tiền bạc và thời gian để đi làm từ thiện.

Tuy nhiên, ở phía ngược lại, chúng ta thấy vẫn cón nhiều người tham lam, gian ác; muốn áp đặt ý chí của mình lên trên tất cả, muốn những người khác phải phục tùng, đặt mục tiêu kiếm tiền lên trên hết… Oái oăm thay, điều này lại thường xẩy ra trong thế giới của chúng ta, nhất là ở những nước nghèo và rất nghèo. Lợi ích nhóm hiện đang là một trong những tác nhân gây nên sự cách biệt rất lớn về giàu - nghèo trong xã hội.

Nêu lên như vậy để chúng ta thấy rằng, những giá trị chung nhân lạo là có thật, chúng đã được người công nhận và tôn trọng; chúng đã đặt nền móng cho sự phát triển của nhân loại tiến bộ. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận, một số thế lực chưa hiểu, hoặc cố tình không muốn hiểu, không chịu thừa nhận giá trị chung nhân loại, vì thế vẫn còn những mâu thuẫn, những bất đồng, những xung đột. Việc đề cao và phổ biến những giá trị cung nhân loại vẫn đòi hỏi rất nhiều nỗ lực ở con người.

“Giá trị chung nhân loại” và người Việt Nam

Nếu nhìn từ góc độ những giá trị tuyệt đối như: Cái thiện, Cái đẹp, Đạo đức, Lương tri... thì ông cha ta xưa kia cũng không xa lạ gì với những giá trị chung nhân loại. Thậm chí, những gia trị này đã thành đạo lý của dân tộc ta từ lâu. Dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển qua hàng ngàn năm lịch sử, xét cho cùng là dựa trên nến tảng những giá trị chung nhân loại.

Tuy nhiên, trong lịch sử hiện đại, nhất là trong thời kỳ “chiến tranh lạnh” trên thế giới và “chiến tranh nóng” ở Việt Nam, không có điều kiện thuận lợi để bàn luận cũng như công nhận những giá trị chung nhân loại, nhất là những giá trị đó lại được tạo ra ở những quốc gia thù địch.

Vì phải tiến hành chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, người Việt Nam đã sống nhiều năm trong những hoàn cảnh khá đặc biệt, không dễ gì công nhận những cái hay, cái tốt, cái đẹp ở phía kẻ thù. Mà một khi đã không công nhận thì, nếu không phủ nhận thì ít ra cũng không nói tới những điều này, không ca ngợi chúng.

Thời chiến tranh, Liên Xô cung cấp cho ta máy bay MIC 21, nhìn thấy máy bay, có cán bộ cao cấp của ta nói: “Máy bay thì tốt, thì đẹp thật đấy, nhưng hình dáng của chúng giống máy bay của Mỹ quá. Các đồng chí Liên Xô là xã hội chủ nghĩa, sao lại làm giống máy bay của chủ nghĩa đế quốc?!”. Các chuyên gia Liên Xô buộc phải giải thích: “Dựa vào những nguyên tắc vật lý, chính xác là khí động học, muốn máy bay bay nhanh, buộc chúng phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất định. Những người chế tạo máy bay của Mỹ và của Liên Xô đều biết những nguyên tắc này, tuân thủ nó. Kết quả là hình dạng máy bay chiến đấu của hai nước giống nhau”.

Kiểu tư duy như cán bộ cao cấp của Việt Nam vào thời điểm đó không phải là cá biệt. Suy nghĩ và hành động theo quan điểm chính trị - tư tưởng, bất chấp những nguyên lý khoa học nhằm phục vụ cho mục đích trước mắt là chỉ ra sự khác biệt giữa ta và kẻ thù. Trong điều kiện như vậy, khó có diễn đàn cho việc lý giải và khẳng định những giá trị chung nhân loại.

Chỉ đến cuối những năm tám mươi của thế kỷ trước, khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, chúng ta mới có ý thức tìm đến những giá trị chung nhân loại một cách công khai. Nhà triết học Trần Đức Thảo bao nhiêu năm “im hơi, lặng tiếng”, lúc này mới lại thấy xuất hiện. Trước hết, ông có những buổi nói chuyện chuyên đề, sau có những bài viết đăng báo. Một số bài báo của ông đăng trên Sài Gòn giải phóng (Số ra ngày 24/4/1988) Về quan điểm triết học của sự đổi mới, của sự cải tổ có tính cách mạng”, hay trên Tạp chí Cộng sản (Số 1 – 1991) có ảnh hưởng lớn. Nguyễn Đức Thảo viết trong tác phẩm Một hành trình (được hoàn thành năm 1986): “Khi tự đối diện với chính mình, ý thức đòi hỏi cái Thiện trong hành động, cái Chân trong tri thức và cái Mĩ trong sự hoàn thành các quá trình sống trải, qua đó, ý thức biến thế giới tự nhiên thành một Nhân giới, xứng đáng với con người”.

Có thể nói Nhà triết học Trần Đức Thảo đã khơi nguồn cho tư duy tiếp cận những giá trị chung nhân loại cho chúng ta vào thời điểm lúc bấy giờ. Từ đó đến nay, nhiều nhà khoa học ở các trung tâm lớn của đất nước như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng… đã có những đóng góp nhất định nhằm thúc đẩy tư duy sáng tạo trong các bộ môn khoa học xã hội. Tuy vậy, những thành quả chúng ta đạt được vẫn khá khiêm tốn và còn nhiều hạn chế.

Thậm chí cho đến ngày nay, nhiều người Việt Nam vẫn nhìn nhận những giá trị chung nhân loại với cái nhìn vừa khiên cưỡng, vừa dè dặt. Theo dõi các kỳ họp Quốc hội, nhất là kỳ họp thứ hai của Khoá XIII, khi thảo luận về Dự luật Biểu tình và Dự luật Lập hội, một số đại biểu tỏ ra không hiểu hoặc không công nhận những giá trị chung nhân loại quan trọng như quyền được biểu tình, quyền được lập hội, nghĩa là những quyền cơ bản thuộc về quyền con người. Cụ thể, Đại biểu Hoàng Hữu Phước cho rằng, dân trí của Việt Nam còn thấp, chưa đủ điều kiện để ban hành Luật biểu tình. Còn Đại biểu Đặng Ngọc Nghĩa cho rằng, không cần Luật biểu tình vì “chế độ xã hội chủ nghĩa dân chủ gấp vạn lần chế độ tư bản” .

Như vậy là một số người có trách nhiệm tham gia trực tiếp vào quá trình lập pháp lại có ý muốn tước bỏ trên thực tế một số quyền quan trọng như quyền biểu tình, quyền lập hội. Trong khi đó, những quyền này không chỉ là nhu cầu thực tiễn của xã hội mà nó gần như là chuẩn mực của thế giới về quyền tự do của con người. Nêu hiện tượng và vấn đề này lên để chúng ta thấy rằng, khoa học về luật pháp ở Việt Nam còn rất nhiều vấn đề phải làm.

Để hội nhập thành công (không bị loại trừ, cũng như không bị đồng hoá), chúng ta còn phải nỗ lực rất nhiều, đặc biệt là những nhà khoa học xã hội. Khác với khoa học tự nhiên và khoa học cơ bản, khoa học xã hội có mối quan hệ mật thiết và liên quan chặt chẽ với chính trị - tư tưởng. Vì vậy nó bị chính trị - tư tưởng can thiệp và chi phối là điều đương nhiên. Ngược lại, nó cũng có cơ hội để tham gia trực tiếp vào hoạt động chính trị, tư tưởng, ngoại giao, thương mại…

Có lẽ chúng ta cần phải có một cuộc hành trình khá dài nữa mới có thể tiếp cận và “tiêu hoá” được những giá trị chung nhân loại đã trở nên khá phổ biến trên thế giới.

Qua các kỳ thi đại học và cách chọn nghề của học sinh trong những năm gần đây, ta thấy các ngành khoa học xã hội đang gặp khó khăn. Đây có lẽ cũng là đặc điểm của thời kỳ đầu phát triển kinh tế thị trường: Khi các mối quan hệ thị trường mới được xác lập, người ta ưu tiên cho những hoạt động trực tiếp tạo ra giá trị vật chất. Nhưng khi cái ăn, cái mặc tạm đủ, con người có nhu cầu cao hơn về tinh thần. Lúc này vai trò của các ngành khoa học xã hội sẽ được nâng cao. Bây giờ đang là lúc thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập của Việt Nam vào đời sống quốc tế. Đây chính là cơ hội lớn cho tất cả các lĩnh vực, trong đó có khoa học xã hội.

Trong quá trình hội nhập với thế giới, có lẽ các ngành khoa học xã hội gặp khó khăn nhiều hơn so với các ngành khoa học cơ bản, tự nhiên, công nghệ. Nhưng có lẽ những khó khăn này không làm làm các nhà khoa học xã hội Việt Nam nản chí. Hy vọng họ sẽ tìm thêm được những sức mạnh từ những giá trị chung nhân loại để tiếp tục công việc của mình một cách say mê hơn, hào hứng hơn.
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Định chuẩn bằng những giá trị phổ quát

    25/05/2015Giáp Văn DươngSử dụng những giá trị phổ quát làm thang giá trị chủ đạo sẽ giảm được sự phức tạp trong quá trình định chuẩn và tránh được những hậu quả khôn lường do chọn phải những thang giá trị lạc hậu làm chuẩn cho xã hội...
  • Phẩm hạnh là giá trị quan trọng nhất của nhân lực

    27/05/2015Hải Lan (Thực hiện)"Chuyên môn không phải là tất cả sự hấp dẫn của con người. Giá trị văn hoá, hiểu biết văn hoá, sự duyên dáng trong hành vi cũng như ứng xử của các bạn chiếm vào khoảng 50% giá trị thương mại của các bạn. Trình độ chuyên môn chỉ có giá trị khoảng 15% khi các bạn tìm công việc". Kinh nghiệm của chuyên gia Nguyễn Trần Bạt...
  • Giá trị lao động và giá trị tri thức

    01/05/2017Trần Quân Tuyền (GS, TS Viện khoa học xã hội Trung Quốc)Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra sự phân tích và luận chứng khoa học để, một mặt, phê phán quan điểm của phương Tây cho rằng lý luận giá trị lao động của C.Mác đã không ý nghĩa, mặt khác chứng minh một cách thuyết phục lý luận giá trị thặng dư của C.Mác không hề lỗi thời, mất tác dụng...
  • Cái ta đang cố gắng luôn có giá trị

    27/08/2019Gần gũi, sâu sắc, thân thiện, cách giáo sư Ngô Bảo Châu chuyện trò cho ta cảm giác như giáo sư đang nói chuyện với một người thân, một người bạn, một đồng nghiệp...
  • Giá trị cá nhân có thể thay đổi xã hội

    08/06/2019Chung NhiBên cạnh tính đồng thuận, ngày nay, xã hội ta nên tạo ra môi trường để sự khác biệt được tôn trọng và phát triển. Nhất là trong tình hình hiện nay, các lối tư duy cũ đang dẫn cả thế giới đến cuộc khủng hoảng toàn cầu. Con người, muốn đạt được sự khác biệt cần có tự do cá nhân...
  • Từ Hệ tư tưởng đến Hệ giá trị

    09/06/2018Nguyễn Trần BạtGiá trị của các hệ tư tưởng chỉ có tính chất tương đối, mang tính lịch sử. Tư tưởng và hệ tư tưởng không phải là những giá trị bất biến, càng không phải là những tín điều để tôn thờ, nó đang và sẽ bị thay thế bởi hệ giá trị, là một hệ thống các tiêu chuẩn để quy định, định hướng và tổ chức hành vi của con người trên phạm vi toàn cầu...
  • Hội nhập những giá trị cá nhân

    22/04/2018Nguyễn Trần BạtTôi nghĩ rằng, đi tìm cái quy luật tinh thần của mỗi một vĩ nhân trong cuộc đời chính là cách tốt nhất để chúng ta dẫn mình đến những thử nghiệm tinh thần của mình...
  • "Hẫng hụt nhiều giá trị đạo đức và nhân văn"

    26/08/2017Nhật Lệ thực hiệnTrong đời sống hiện đại, sự có mặt của các nhà tâm lý học để sớm đưa ra những tiên liệu về mầm mống tâm bệnh của xã hội, cũng như những hồi chuông cảnh báo về sự lệch lạc trong lối sống, đời sống tinh thần là hết sức cần thiết...
  • Giá trị cốt lõi của Giáo dục Đào tạo

    25/11/2016Nguyễn Tất ThịnhTôi cho rằng Thực tiễn Cuộc sống vốn luôn được lấp đầy trong nó những Sự thật và Giả dối. Cái Giả dối thử thách cái Sự Thật, và cái Sự Thật phải chí ít phải thuyết phục được cái Giả dối, nếu chưa thể nói là phải chiến thắng nó. Cũng chẳng cần nhiều luận thuyết cho lắm, cũng không cần thêm một ‘phát minh’ nào...
  • Từ bầy đàn đến cá nhân - Sự chuyển đổi hệ giá trị

    24/09/2015Phạm Bích SanSáng tạo bao giờ cũng là sáng tạo cá nhân, còn những hoạt động cộng đồng chỉ là sự tổ chức ra các điều kiện cho cá nhân sáng tạo...
  • Suy ngẫm về giá trị sống

    02/03/2015Matsushita KonosukeNếu ngồi ngẫm nghĩ tại sao chúng ta phải làm việc, có người cho rằng nếu không làm việc sẽ không có gì để ăn, nhưng tôi nghĩ không chỉ là như vậy. Không chỉ vì miếng cơm, mà để cho cuộc sống trong tương lai tốt đẹp hơn, mọi thứ đều phải bắt đầu từ ngày hôm nay. Vì vậy, con người phải lao động.
  • Vấn đề giá trị quan Châu Á: nghiên cứu so sánh Châu Á và phương Tây

    18/10/2014Hồ Sĩ QuýNgười Châu Á coi “cần cù, yêu lao động” là giá trị hàng đầu của sự làm người. Nhưng người Mỹ lại coi "tự lực cánh sinh"' mới là giá trị đáng quý nhất, cần cù cũng được coi trọng nhưng chỉ đứng thứ ba sau “tự lực cánh sinh và thành đạt cá nhân”...
  • Bàn về "những giá trị sống"

    13/07/2014Nguyễn Trần Bạt... rất mong ông trò chuyện giúp người trẻ suy nghĩ, nhìn nhận lại, đặt lại vấn đề về các giá trị nền tảng nhất cho cuộc sống. Mong ông cùng chia sẻ với độc giả về những điều họ cũng đang nghĩ, đang đi tìm và có thể chưa tìm ra hoặc tìm sai cho mình...
  • Lại bàn về những giá trị sống

    19/06/2014Nguyễn Trần BạtAnh là một mẫu mực, giống như cách anh nói, anh muốn đi tìm hiểu đời sống tinh thần của những người thành đạt, những người nổi tiếng để hiểu thêm họ như một cái gì đó để hướng theo. Anh vẫn nói là không muốn trở thành một người giảng dạy chuyên nghiệp, nhưng đối với tôi và đối với những giáo viên ở khoa chúng tôi cũng như các sinh viên ở đây thì anh vẫn là một người thầy...
  • Xã hội đang chạy theo giá trị ảo?

    25/11/2013Anh ĐứcDường như tất cả đã sẵn sàng cho một nghìn năm Thăng Long mà sao vẫn thấy trăn trở một điều gì đó ẩn sâu sau những hoạt động ồn ào và náo nhiệt này. Đằng sau những hoạt động được gọi là "bề nổi" kia thì nhìn lại Hà Nội hôm nay đã thay đổi nhiều với Hà Nội trong hoài niệm xưa kia...
  • "Lớp trẻ cần tự hình thành hệ thống giá trị mới"

    17/03/2013Hoàng Lê (thực hiện)"Lớp trẻ hiện nay mang trong mình cả một tiềm năng ghê gớm lẫn cả tai hoạ tiềm tàng. Nếu không biết khai thác, thật khó đoán biết điều gì sẽ xảy ra... Tôi muốn nói rằng, các bạn trẻ cứ yên tâm. Xã hội ta luôn đón chờ những tài năng trẻ"...
  • Những suy nghĩ về sự thay đổi thang giá trị đạo đức trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay

    16/07/2010Trần Hoàng HảoTrong bối cảnh công nghiệp hoá hiện đại hoá hiện nay, kỹ thuật công nghệ đang dần trở thành nhân tố thống trị J. Ellul trong bài viết: “Nghiên cứu về một nền đạo đức trong một xã hội kỹ thuật” đã viết: “Kỹ thuật là môi trường phức tạp và đầy đủ trong đó con người sống, theo đó con người phải tự xác định mình… xem xét lại hoàn toàn các phương thức ứng xử cũ, kể cả những giá trị đạo đức truyền thống”. Thực tế cho thấy, công nghiệp hoá - hiện đại hoá cũng mang tính hai mặt...
  • Góp ý bài phỏng vấn "bàn về giá trị sống"

    28/12/2009Lâm Kim ThànhTrong bài trả lời phỏng vấn của bác Nguyễn Trần Bạt vào ngày 07/06 /2009 về việc bàn về những giá trị sốngxin mạn phép chia sẻ ý kiến riêng kể cả đồng ý và phản đối quan điểm của bác...
  • Bàn về "những giá trị sống"

    29/11/2009Nguyễn Trần Bạt...một trong những nội dung quan trọng nhất trong tư duy của con người chính là lợi ích. Người không làm chủ các tư duy lợi ích, không thiết kế được công nghệ tư duy lợi ích và không biến tư duy lợi ích thành một nghệ thuật sống là người không có bản lĩnh trên thực tế...
  • Về tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới

    27/06/2007Nguyễn Văn PhúcTrên bìnhđiện lý luận, cần phân tíchtoàn diện và đầyđủ những nhân tố tácđộng đến quá trình hình thành hệ giá trị và chuẩn mựcđạo đức mới, trongđó, kinh tế thị trường, tiếnbộ công nghệ, giaolưu văn hoá là những nhântố cơ bản nhất...
  • Đông Á và sự phát triển của các giá trị phổ biến

    05/02/2007Nguyễn Ngọc ToànTrong sựbiến đổi văn minh hiện nay, vaitrò quan trọng của triếthọc là nhận biết các giátrị tham gia vào các nền văn minh chủyếu, đặc biệt là nền văn minh Châu Âu và Châu Á,đồng thời, chỉ ra sự tươngđồng của các nền văn hoá- cáicó khả năng liên kết những dântộc, những xãhội khác biệt...
  • Mẹ tôi - giá trị cũ

    13/10/2006Quảng YênMẹ có nhiều bạn gái - bà giáo thân, cùng thời, cùng tuổi, cùng mê thơ lãng mạn Pháp. Trong số họ, cũng có người khổ vì con cái ích kỷ. Có bà sống một mình, dù con rất giỏi và thành đạt. Cho dù họ cư xử không mấy mặn mà với mẹ mình, nhưng mẹ lại luôn tự hào về họ và nhớ mãi tuổi thơ con đã lớn lên đáng yêu như thế nào...
  • Hướng các giá trị đạo đức truyền thống theo hệ chuẩn giá trị Chân – Thiện – Mỹ

    27/03/2006TS. Đặng Hữu ToànNền kinh tế thị trường với những nguyên tắc vận hành và phát triển riêng của nó đang có ảnh hưởng sâu sắc cả theo hướng tích cực lẫn tiêu cực tới mọi mặt đời sống xã hội, tới hệ thống các giá trị, các quy phạm đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống và nhân cách con người trong một quốc gia, dân tộc. Phát triển kinh tế thị trường không chỉ làm nảy sinh quá trình xâm nhập, bổ sung lẫn nhau giữa các hệ thống giá trị, các chuẩn mực đạo đức, các quy tắc ứng xử truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế...
  • Giá trị đạo đức- giá trị bản thân và giá trị xã hội

    11/03/2006Ngô ToànĐạo đức là một hệ thống giá trị, một hiện tượng xã hội mang tính chuẩn mực, thể hiện mệnh lệnh, đánh giá rõ rệt...
  • Định hướng giá trị và sự phát triển của thế hệ trẻ

    03/03/2006Phó GS. TS. Đỗ LongGiá trị bao giờ cũng đóng một là vai trò chỉ đạo và định hướng cho xã hội theo những mục tiêu to lớn được coi là có ý nghĩa cho sự tồn tại và phát triển. Quá trình phát triển của xã hội nhanh hay chậm tùy thuộc ở chỗ giá trị được định hướng có phù hợp với quy luật khách quan hay không, phù hợp nhiều hay ít, có tương ứng với giá trị của cộng đồng, của cá nhân hay không và sự tương ứng ấy ở mức độ nào...
  • Về giá trị và giá trị Châu Á

    22/02/2006Hồ Sĩ QuýTác giả đã phân tích những giá trị truyền thống Châu Á trong bối cảnh thế giới đương đại và có sự đối sánh với những hệ giá trị khác, tổng hợp những quan điểm điển hình của một số học giả có uy tín trong và ngoài nước về lĩnh vực này, luận giải mối tương quan giữa những giá trị truyền thống Châu Á và nền văn hoá Việt Nam...
  • Giá trị đích thực của lẽ sống tuổi trẻ VN

    07/09/2005Nguyên Tổng bí thư Lê Khả PhiêuNguyên Tổng bí thư LÊ KHẢ PHIÊU cho biết: "Khi trên báo Tuổi Trẻ trích đăng nhật ký của liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, tôi đã đọc, cắt và đóng lại theo tập. Sau đó, tôi chuyển cho vợ, các con và các cháu tôi cùng đọc. Vợ tôi nói “hay quá, cảm động quá”. Chuẩn bị chuyến đi công tác miền Trung khá dài ngày, tôi cứ Io sẽ không được đọc tiếp.Nhưng trước khi đi, tôi được tin nhà xuất bản đã cho in cả hai tập nhật ký của hai liệt sĩ Đặng Thùy Trâm và Nguyễn Văn Thạc...
  • Giá trị sống

    09/07/2005Nguyễn Thị OanhVài thập kỷ nay trong giáo dục đạo đức cho tuổi trẻ trên thế giới người ta dùng hai khái niệm mới là giáo dục kỹ năng sống (KNS-life skills) và giá trị sống (GTS - living values).
  • xem toàn bộ