Ph.Ăngghen bàn về những điều kiện hình thành tư duy lý luận
Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận. Ph.Ăngghen đã viết như vậy về vai trò của tư duy lý luận. Song,
Điều kiện thứ nhất:
Tư duylý luận phải được hình thành trêncơ sở kinh nghiệm.Điểm xuất phát của tư duy lý luận là kinh nghiệm. Không có kinh nghiệm thì không có sự khám phá thực sự về nhưng quy luật tấtyếu, nội tại của sự vật, hiện tượng. Ph.Ăngghen viết: "...Cái mà Hêgen coi là sự phát triển của hình thức tư duy của phán đoán với tính cách là phán đoán, thì ở đây, đã thành ra sự phát triển của những tri thức lý luận của chúng ta về bản chất của sự vận động nói chung, tri thức đưa trên một cơ sở kinh nghiệm.Chính cái đó chứng minh rằng những quy luật của tư duy và những quy luật của tự nhiên nhất trí với nhau một cách tất nhiên”.
Mộtlà, kinh nghiệm được tích luỹ tự nó đã đòi hỏi phải có sự hệ thống hoá và phải tìm ra một liên hệ bên trong tất yếu của nó. Thực hiện được điều đó cũng có nghĩa là tư duy đã chuyển từ giai đoạn kinh nghiệm lên giai đoạn lý luận. “Khoa học tự nhiên kinh nghiệm đã tích lũy được một khối lượng tài liệu chính diện to lớn đến ngày nay tuyệt đối bức thiết phải sắp xếp những tài liệu ấy một cách có hệ thống và dựa vào mối liên hệ từnội tại của chúng trong linh vực nghiên cứu riêng biệt. Người ta cũng thấy không kém cần thiết phải sắp xếp những lĩnh vực khác nhau của tri thức
Hailà, bát cứ một dạng thức nào của tư duy kinh nghiệm cũng có
Điều kiện thứhai:
Phải có giả thuyết và sử dụng giả thuyết trong quátrình hình thànhtư duylý luận.Ph.Ăngghen cho rằng khi phân tích vai trò của giả thuyết trong quá trình phát triển tri thức, người ta xem xét nó ở hai mặt: giả thuyết như là phương pháp và giả thuyết như là bộ phận của lý thuyết. Đương nhiên. có sự khác nhau giữa giả thuyết như là phương pháp phát triển tri thức khoa học tư duy lý luận và giả thuyết như là yếu tố cấu trúc của lý thuyết khoa học. Giả thuyết có thể xuất hiện trong lý thuyết với tư cách là những ý kiến cơ bản và nhìn
Theo Ph.Ăngghen, trong lịch sử phát triển của nhận thức, giả thuyết với tư cách là phương pháp phát triển tri thức khoa học đã thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu, đặc biệt là ở những thời kỳ có tính bước ngoặt do hậu quả khủng hoảng của khuôn mẫu phương pháp luận mà đã được thừa nhận về tính khoa học: Về mặt lịch sử, việc xuất hiện phương pháp giả thuyết gắn liền với những giai đoạn sớm của sự phát triển toán học cổ đại. Các nhà toán học cổ Hy Lạp đã áp dụng rộng rãi với phương pháp chứng minh toán học, những thí nghiệm diễn dịch tưởng tượng vốn bao chứa việc đưa ra các giả thuyết và rút ra nhưng hệ quả từ các giả thuyết đó - nhờ diễn dịch phân tích với mục đích kiểm tra tính đúng đắn của nhưng phỏng đoán đầu tiên. Họ cho rằng, chỉ có giả thuyết mới có thể giúp họ đạt được tính chân lý của tri thức khoa học. Pácmênít là người đi tiên phong trong số họ. Cách tiếp cận mới về nguyên tắc đối với giả thuyết do Platôn đưa ra. Ông xem các giả thuyết như là những tiền đề của phương pháp chứng minh phân tích - tổng hợp, có khả năng đảm bảo tính chân lý tuyệt đối của các kết luận, vốn do ông tạo lập. Arixtốt là người phát hiện ra vai trò gợi mở của giả thuyết. Quan điểm của ông xuất phát từ chỗ cho rằng không thể sử dụng giả thuyết như là những tiền đề của chứng minh “tam đoạn luật”. Vì dựa vào tiền đề của chứng minh tam đoạn luận, người ta chỉ có thể hiểu được những chân lý cân thiết và khái quát
Ph.Ăngghen cho rằng có lẽ chỉ trong phương pháp luận và triết học cuối thế kỷ XVIII, đâu thế kỷ XIX, trong quá trình lĩnh hội nhưng thành tựu của các công trình nghiên cứu thực nghiệm, người ta mới dần dần bắt đầu ý thức được vai trò gợi mở của phương pháp giả thuyết. Tuy nhiên, cả hai khuynh hướng duy lý và kinh nghiệm trong phương pháp luận và triết học cận đại vẫn không đạt được việc lý giải tính tất yếu của giả thuyết trong nhận thức khoa học và vẫn chưa khác phục được sự đối lập phản biện chứng giữa giả thuyết và quy luật.Vào những năm 70 - 80 của thế kỷXIX, trên cơ sở sự hiểu biết mới về nguyên tắc, về quy chế nhận thức luận của các quy luật và các lý thuyết với tư cách là những khăng định
Điều kiệnthứ ba:
Phương pháp biện chứng duy vật như là điều kiện không thể thiếuđể hình thànhtư duylý luận.
Như vậy, đối với Ph.Ăngghen, không tồn tại khả năng lựa chọn phương phápmà chỉ còn khả năng sáng tạo ra phương pháp mới.Bởi lẽ, quan điểm duy vật về lịch sử đã đặt ra một đòi hỏi khách quan: cần có phương pháp mới về chất để có thể bao chứa được cả hai yếu tố "hợp lý" và "căn bản" - duy vật và biện chứng. Vậy để đi đến phương pháp mới về chất đó, cần xuất phát từ đâu?
Chính nhờ phương pháp biện chứng duy vật mà tư duy lý luận được hình thành một cách tự giác, dễ dàng và được rút ngắn hơn nhiều. "Người ta có thể đạt đến quan điểm biện chứng đó do những sự kiện thực tế đang tích luỹ lại của khoa học tự nhiên bắt buộc, nhưng người ta có thể đạt tới nó một cách dễ dàng hơn nếu đưa nhận thức về những quy luật của tư duy biện chứng vào việc tìm hiểu tính chất biện chứng của nhưng sự kiện ấy".
Điều kiện thứ tư:
Tư duy lý luậnphải được gắn liền với sự phát triển của khoa học bởi lẽ:
Thứ nhất,
Thứ hai, khoa học tự nó cũng đã có sự tổng hợp biện chứng. Thêm vào đó, các thành tựu cửa khoa học tự nhiên đã đưa lạinhững cơ sở khách quan, những kết luận
Thứ ba,sự phát triển của khoa học nói
Như chúng ta đã biết, trong "Chống Đuyrinh", Ph.Ăngghen cũng đã thực hiện sự phân tích đó trong sự phát triển tri thức lý luận, đồng thời đã chỉ ra sự thay đổi về nghĩa và thay đổi lĩnh vực áp đụng của các giả thuyết, các mệnh đề lý luận, quan điểm…
Điều kiệnthứ năm:
Tư duy lý luận phải có “bà đỡ” là thực tiễn xã hội. Từ trước tới nay, Ph.Ăngghen lý giải, khoa học tự nhiên cũng như triết học đã hoàn toàn coi thường ảnh hưởng của hoạt động con người đối với tư duy của họ. Hai môn này một mặt chỉ biết có tự nhiên, mặt khác, chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính việc người ta biến đổi tự nhiên,chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên.
Như vậy, ở Ph.Ăngghen, vấn đề tính chân lý của tri thức lý luận, của tư duy lý luận gắn liền với thực tiễn, với hoạt động cải tạo cách mạng của con người. Đó không phải là vấn đề thuần tuý của các phương pháp thu nhận hay trình bày tri thức. Khi nói về những trừu tượng khoa học cần cho việc tái tạo tiến trình lịch sử hiện thực của các sự kiện, Ph.Ăngghen nhấn mạnh: Nhưng trừu tượngtự chúng bị tách ra khỏi lịchsử hiệnthực tuyệt nhiên không có giá trị nào cả. Chúng có thể có ích chỉ trong việc hiệu đính các tài liệu lịch sứ, để vạch ra tính logic nhất quán trong các lớp riêng biệt của nó. Khác với triết học, những trừu tượng này hoàn toàn không thể đưa ra những đơn thuốc hay những sơ đó mà
Điều kiện thứ sáu:
Muốncó tư duy]ý luận, phải có sự nghiên cứu nghiêm túc toàn bộ lịchsử triếthọc. Bởi vì tư duy lý luận, ở mỗi người chúng ta, chỉ tồn tại dưới dạng năng lực tiềm tàng và chính việc nghiên cứu một cách nghiêm túc, khoa học toàn bộ tư tưởng triết học của nhân loại sẽ giúp cho năng lực "ấy trở thành hiện thực". Tư duy lý luận, Ph.Ăngghen viết, chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hoàn thiện, mà muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước.
Sở đĩ như vậy là do "tư duy lý luận của môi thời đại, cũng có nghĩa là cả thời đại chúng ta, là sản phẩm lịch sử mang những hình thức rất khác nhau trong những thời đại khác nhau và do đó có một nội dung rất khác nhau. Thế cho nên cũng như bất kỳ khoa học nào khác, khoa học về tư duy là một khoa học lịch sử, là khoa học về sự phát triển lịch sử của tư duy con người". Hơn nữa,
Tóm lại, những điều kiện để hình thành tư duy lý luận mà Ph.Ăngghen đã chỉ ra có một giá trị khoa học to lớn. Nó không chỉ có ý nghĩa trong thời đại của Ph.Ăngghen thời đại cần phải hiểu và nắm vững những điều kiện đó để hình thành một kiểu tư duy lý luận (tư duy biện chứng duy vật) mớivề nguyên tắc so với mọi loại hình tư duy trước đó mà vẫn còn có ý nghĩa khoa học sâu sắc đối với thời đại ngày nay, đặc biệt là đối với nước ta hiện nay, khi mà chúng ta đã, đang và sẽ còn tiếp tục đổi mới và hoàn thiện tư duy lý luận để có thể đáp ứng được sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngTri thức có thúc đẩy quá trình tiến hóa hay không?
26/07/2006Đỗ Kiên Cường